Thư hùng giữa Task Unit 61.3.4 của Đại tá Frank R. Walker với Hải đoàn 3 của Đề đốc Matsuji Ijuin giống một trận đấu giữa một võ sĩ quyền Anh hạng nặng với một võ sĩ hạng lông. Càng chênh lệch khi đấu thủ da trắng trang bị mắt thần Radar nhìn thấu suốt địch thủ, trong lúc samurai Nhật giống một hiệp sĩ mù nghe gió kiếm mà không trông thấy gì hết. [Trần Vũ] 

Bản dịch Nguyễn Nhược Nghiễm

Chương XXXVIII

Ngay sau khi Ðề đốc Ijuin đọc bản phúc trình của tôi về chuyến đi Tuluvu, ông ra lịnh xem xét lại chiếc Shigure. Là một chuyên viên hoa tiêu, ông lo ngại những hậu quả gây ra từ việc gia tăng tốc lực cấp tốc mà chiếc tàu phải chịu đựng.

Sau khi đã chạy thử và xem xét cẩn thận, các kỹ sư bảo trì đã đệ lên Ijuin một báo cáo hoàn toàn đúng với điều lo ngại của ông. Theo đó, chiếc Shigure không còn đủ khả năng để dự trận được nữa. Bản báo cáo ghi nhận rằng chiếc Shigure bỏ qua kỳ hạn tu bổ quá lâu, máy móc đã đến mức tồi tệ, bánh lái và tay lái sai lệch. Thân tàu đóng đầy vỏ sò hến, và các cơ quan cần phải có sự chính xác khác đều không thể sửa chữa hoặc điều chỉnh được. Bản báo cáo kết luận: “Xin cho phép sửa chữa tạm thời tại Rabaul để khu trục hạm Shigure có thể di chuyển sớm chừng nào hay chừng ấy về Sasebo hoàn tất công việc tu bổ.”

Khi một phó bản của báo cáo được gửi đến chiếc Shigure, mọi người đã chuyền tay nhau để xem. Phản ứng của thủy thủ đoàn mỗi người mỗi khác, nhưng đều giống nhau trên căn bản: Không người nào muốn trở về Nhựt.

Sau khi tham dự nhiều trận đánh mà không một ai thương vong, tinh thần thủy thủ đoàn Shigure lên cao tột đỉnh. Tất cả đều la lên giận dữ khi đọc qua bản báo cáo. Họ văng tục phản đối, hết lời thóa mạ và có người còn vung tay đe dọa đấm “mấy tên thợ máy to đầu” ám chỉ mấy viên kỹ sư. Tất nhiên, Ðề đốc Ijuin chấp thuận khuyến cáo của các kỹ sư.

Khi những chuyên viên sửa chữa lên tàu, thái độ của thủy thủ đoàn thay đổi mau chóng. Họ tỏ ra thân thiện và vui vẻ, vui lòng hợp tác trên mọi phương diện. Ðại úy Hiroshi Kayanuma, cơ khí trưởng của Shigure, còn tỏ ra một cách thân mật đặc biệt hơn.

Với bộ râu dài, Kayanuma giống như một người tiền sử, nhưng trái lại anh ta là một người khôn khéo và thông minh, và cũng là một tay uống rượu cừ khôi nhứt trên tàu. Kayanuma bắt bồ ngay với mấy viên cai trông coi toán sửa chữa, lôi họ đi nhậu nhẹt mỗi chiều, cố gắng tán tỉnh để họ xúc tiến công việc sửa chữa nhanh chóng. Anh ta nói với họ: “Rabaul đang thiếu tàu chiến. Ngay cái chậu cũ kỹ xộc xệch này xem ra còn xài được hơn mấy cái chậu mới, chỉ biết đưa lưng ra đỡ đạn. Chúng tôi muốn chiến đấu. Xin giúp chúng tôi cơ hội nhận chìm tàu địch càng sớm càng tốt.”

Thái độ đó cũng là thái độ chung của thủy thủ đoàn Shigure. Chỉ trong vòng 6 tháng mà họ đã thay đổi biết bao! Hiện thời họ đã khiến cho tôi kiêu hãnh. Với tinh thần cao như vậy, tôi biết nếu tham dự bất kỳ trận đánh nào họ cũng đều có thể gặt hái thành công. Công việc sửa chữa mất nhiều ngày giờ hơn dự tính của chúng tôi. Vì có thêm nhiều chỗ hư hỏng cần phải sửa chữa thực cẩn thận.

Trong tuần lễ đầu tiên ăn không ngồi rồi tôi ngã bệnh. Suốt tháng 8 đầy sôi động, tôi không bao giờ được nghỉ ngơi lâu dài sau các trận đánh dữ dội. Qua các trận đánh kéo dài nhiều ngày này, cộng thêm nhiều đêm không chợp mắt, khiến bao nhiêu sức lực của tôi đều tiêu tán. Trong giai đoạn nghỉ ngơi như thế này tôi lại uống quá nhiều rượu. Vào cuối tháng 8, tôi đã tiêu thụ cả thùng sakê mỗi đêm trước khi ngủ. Sau một tuần nhàn rỗi và quen thói tật nhậu nhẹt, tôi sợ mình trở thành một con sâu rượu nên cố gắng giảm xuống. Nhưng sức khỏe tôi giảm sút khủng khiếp, không đủ trầm trọng để tôi nằm liệt giường, nhưng nó đủ sức gây cho tôi tính khí thất thường và hay tức bực.

Tôi ngẫm nghĩ về tình thế của cuộc chiến. Tại sao Nhựt Bổn không chịu thương lượng hòa bình trước khi việc này quá trễ tràng? Tôi không thể nào ngủ yên giấc. Mỗi khi tôi chợp mắt, những cơn ác mộng ùa đến và tôi bừng dậy, mồ hôi lạnh toát đầy thân.

Xem thêm:   Một chút cảm nhận

Nghĩ lại, tôi nhớ ơn Ðề đốc Ijuin. Ông biết tôi cần phải nghỉ ngơi, nên ông đã dành cho tôi thời gian này. Nhiệm vụ chỉ huy một chiếc tàu trong thời chiến là một nhiệm vụ đầy mệt mỏi, đó là không nói giữa lúc tôi còn khỏe mạnh, tuổi mới trên 40. Chỉ cần tưởng tượng tôi cũng thấy các sỹ quan cao cấp hơn đã gặp phải biết bao khó khăn. Các sử gia, những người thường hay chỉ trích những sỹ quan chỉ huy, phải nhìn một cách thích đáng những căng thẳng và những trách nhiệm nặng nề của một vị chỉ huy chiến đấu.

Thời gian nghỉ ngơi ngắn ngủi giúp tôi hồi sinh. Hai tuần lễ này đã khôi phục đầy đủ năng lực của tôi. Vào giữa tháng 9, khi công việc sửa chữa chiếc tàu xong xuôi, tôi mạnh hẳn về cả thể xác lẫn tinh thần.

Trong khi đó, tình thế cuộc chiến về phía Nhựt trở nên tồi tệ. Do đó, Bộ Tư Lệnh Tối Cao quyết định một cuộc hành quân triệt thoái khác. Di tản bộ binh Nhựt ở Kolombangara.

Tôi trở lại nhiệm sở đúng vào thời gian có cuộc tiếp tế Buka. Hòn đảo thuộc quần đảo Solomon này nằm gần Rabaul nhứt. Ðề đốc Ijuin cho rằng cuộc hành quân dễ dàng này sẽ lấy lại phong độ cho tôi.

Cuộc di tản khỏi khu vực Kolombangara bắt đầu vào ngày 21 tháng 9. Tất cả binh sỹ Nhựt trấn đóng trên hai đảo Arundel và Gizo, ở mạn phía Nam và Ðông-Nam của Kolombangara, được rút hết cùng ngày. Vào ngày 27, cuộc hành quân tiếp vận Buka hoàn tất, tôi gia nhập vào cuộc di tản gần 10,000 binh sỹ trú phòng ngay trên đảo chính là Kolombangara. Cuộc di tản này thành công hoàn toàn vào đầu tháng 10, chỉ có 66 binh sỹ thương vong.

Chương trình triệt thoái kế tiếp là Vella Lavella. Từ đây giống như từ các địa điểm khác, binh sỹ được rút đi đều mang hết về Bougainville. Ijuin được lịnh điều khiển thêm cuộc di tản 600 binh sĩ ở đảo Horaniu, thuộc Vella Lavella.

Ðể thực hiện cuộc hành quân triệt thoái này, Ijuin đã vạch một kế hoạch công phu, đòi hỏi 3 nhóm hộ tống gồm 9 khu trục hạm. Nếu so sánh với tổng số 25 khu trục hạm được sử dụng trong cuộc di tản 10,000 binh sĩ ở Kolombangara, cuộc di tản nhỏ bé này đã quy tụ một hải lực hộ tống vượt mức.

Ijuin giải thích rằng mặc dù các cuộc hành quân ở Kolombangara không gặp phải sự ngăn trở nào đáng kể, nhưng với các cuộc hành quân sau này, địch đã hiểu chiến lược của Nhựt, nên phải chuẩn bị sẵn sàng để đương đầu với sự ngăn cản mạnh mẽ hơn.

Ðiều khôi hài có lẽ là đặc tính nổi bật nhất của cuộc hành quân quá tỉ mỉ này, bởi sự thực, 600 binh sĩ ở Horaniu không rời đi đâu xa hơn là Buin, nằm ở phía Nam Bougainville, nghĩa là cách xa địa điểm di tản không quá 50 dặm. Hơn nữa, và là một sự mỉa mai, 400 trong số 600 binh sĩ di tản lại do chính Ijuin hộ tống đổ bộ lên Horaniu mới một tháng trước đó.

Trận đánh xảy ra vào hai ngày 6 và 7 tháng 10 là một trong những trận đánh hỗn loạn nhất của cuộc chiến Thái Bình Dương. Ngay khởi đầu, cuộc xung đột do những người khư khư ôm lấy ảo tưởng điều động đã vấp phải những sai lầm trong tính toán. Nhưng có một điểm chính xác: Hoa Kỳ đã đánh giá đúng sức mạnh của Nhựt ở Horaniu, và họ biết Nhựt sắp đưa ra một nỗ lực để triệt thoái bộ binh bị cô lập trên hòn đảo này. Hoa Kỳ cũng biết rằng sau một năm của cuộc chiến tiêu hao, sức mạnh trên mặt biển của Nhựt đã sút giảm nghiêm trọng, nhưng họ không ngờ Hải quân Nhựt đã tung đến 9 khu trục hạm, 4 tàu săn tiềm thủy đĩnh và 20 dương vận hạm vào một cuộc hành quân nhỏ bé như vậy.

Ðề đốc Ijuin đã đảm trách quá nhiều nhiệm vụ trong những tháng vừa qua, vì vậy ông đã mỏi mệt. Trong khi sức khỏe của tôi có dịp phục hồi, tinh thần và thể xác của ông thêm căng thẳng sau các trận chiến liên miên không có một dịp nào để nghỉ ngơi. Vấn đề này là một yếu tố quan trọng trong cuộc đụng độ sắp xảy ra.

Hải đoàn 3 đảm trách cuộc di tản khỏi Vella Lavella của Ðề đốc Ijuin, xuất phát từ Rabaul vào sáng sớm ngày 6 tháng 10-1943, tổ chức như sau:

I. Phân Hải đoàn Hộ tống, Ðề đốc Matsuji Ijuin trực tiếp chỉ huy, gồm 2 hải đội:

Hải đội 17: Khu trục hạm Akigumo (Mây Thu), Isokaze (Phong Hải), Kazagumo (Phong Mây), Yugumo (Mây Hoàng Hôn) do Ðại tá Toshio Miyazaki chỉ huy.

Xem thêm:   Đại Tá Hoàng Cơ Lân - Y sĩ nhảy dù đối đầu với Việt Cộng (kỳ 2)

Hải đội 27: Khu trục hạm Shigure (Mưa Phùn), Samidare (Mưa Hạ) do Ðại tá Tameichi Hara chỉ huy.

II. Phân Hải đoàn Khu Trục Vận tải do Ðại tá Kunizo Kanaoka chỉ huy bao gồm 3 khu trục hạm Fumizuki (Tháng 7), Matsukaze (Gió Thông) và Yunagi (Chiều Yên).

III. Phân Hải đoàn Chuyển vận do Ðại tá Shigoroku Nakayama chỉ huy bao gồm 4 tàu chống tàu ngầm và 20 hải vận hạm.

Tất cả đều dưới quyền tổng chỉ huy của Ijuin, soái hạm của ông là chiếc Akigumo, kế đó là Ðại tá Miyazaki đầy đủ kinh nghiệm với chiếc Isokaze của ông, và thành phần còn lại tiếp theo sau. Chọn chiếc Akigumo làm soái hạm, có lẽ Ijuin không muốn Miyazaki mó tay vào các quyết định mặt trận quan trọng của ông. Trên chiếc Akigumo, với vị hạm trưởng và các sĩ quan ít kinh nghiệm, Ijuin sẽ mạnh miệng hơn khi lấy các quyết định riêng.

Trái hẳn ý kiến của một số người Mỹ từng tham dự vào trận đánh sắp xảy ra – họ cho rằng Ijuin không muốn chạm trán với họ. Sự thật, Ijuin mong muốn và rất sẵn sàng để đánh. Số lượng chiến hạm mà ông mang theo đã chứng tỏ điều này. Từng là một chuyên viên hoa tiêu, ông tránh dàn binh theo đội hình phức tạp, và sự thành công của đội hình từng gây bối rối cho đối phương trong cùng một khu vực 7 tuần lễ trước đây vẫn còn trong ký ức ông. Hiện tại ông lại mệt mỏi, nên ý niệm điều quân mới mẻ khó thể có nơi ông.

Bốn chiến hạm thuộc nhóm đầu tiên của ông đều có khả năng đạt vận tốc lên đến 35 hải lý. Do đó, trong một phiên họp chiến thuật, Ijuin có nói với chúng tôi rằng ông sẽ điều quân để nhử địch vào vị trí chọn lựa, nơi đây 2 khu trục hạm của tôi có thể tung ra một cú đấm gây sửng sốt cho địch quân, để nhờ vậy, nhóm khu trục hạm thứ ba của chúng tôi có thể tiến đến đoàn tàu chuyển vận suôn sẻ. Chín khu trục hạm của chúng tôi cũng triển khai thành nhiều nhóm riêng rẽ để địch quân không thể đoán nổi sức mạnh thực sự của chúng tôi. Quả thực, địch quân đã khinh thường lực lượng của chúng tôi, nhưng họ lại không đánh theo sự sắp xếp của Ijuin.

Ngày đó trời đầy mây và mưa sa từng chặp. Lướt vào những cơn mưa, chúng tôi tìm thấy chốn ẩn thân tuyệt hảo. Khi chạy men theo bờ biển phía Ðông Bougainville vào buổi trưa hôm đó, truyền tin của chúng tôi chặn bắt được một công điện mã hóa bằng những con số của địch quân. Công điện này do trinh sát cơ hoặc một số quan sát viên bí mật được địch cài trong rừng rậm Bougainville gửi đi. Chúng tôi không có cách nào để biết có phải công điện này đã báo cáo đầy đủ hay chỉ từng nhóm tàu chiến riêng rẽ của chúng tôi. Nên biết, hiện tại các chiến hạm của chúng tôi chia ra làm 3 nhóm chạy riêng rẽ và cách xa nhiều dặm. Nhưng dù thế nào, bức điện này cũng chứng tỏ sự hiện diện của chúng tôi đã bị địch sớm phát hiện.

Sau khi bắt được bức điện, khoảng cách giữa các khu trục hạm của chúng tôi được nới rộng thêm từ 500m ra 1000m, nhằm chuẩn bị đón nhận một cuộc tấn công của phi cơ địch.

Khoảng 15g, đúng ngay lúc chúng tôi đang chống trả với một cơn mưa ào ạt, nhiều phi cơ địch từ hướng Choiseul bay đến. Cơn mưa bão đã bảo vệ chúng tôi hữu hiệu. Bầu trời tối mịt trong nửa giờ, phi cơ địch không biết chúng tôi ở đâu mà mò, nên đành bỏ cuộc săn lùng.

Lúc mặt trời lặn, chúng tôi nhận được một công điện của Ðề đốc Ijuin cho biết nhóm tàu của ông đang tiến thẳng đến Vella, và chỉ thị thành phần còn lại “hãy giảm tốc độ xuống còn 9 hải lý, và chờ ở phía Ðông đảo Shortland để gặp đoàn tàu chuyển vận”, mà ông hy vọng sẽ đến sớm. Sau khi gửi chỉ thị, nhóm tàu gồm 4 chiếc của Ijuin chạy với tốc độ 26 hải lý, hướng mũi vào eo biển Bougainville. Eo biển này ban ngày di chuyển đã khó khăn, trong đêm tối còn khó khăn hơn nữa, nhưng các chiến hạm của ông không gặp tai nạn nào. Một hoa tiêu xuất sắc, tiếng tăm của Ijuin không có gì quá đáng.

Hai khu trục hạm của tôi chạy chầm chậm ngang qua eo biển và đã gặp các hải vận hạm ở phía Ðông Shortland theo như sự sắp xếp. Sau đó, chúng tôi tiếp tục chạy về hướng Ðông-Nam, với vận tốc nhàn nhã 9 hải lý.

Xem thêm:   Hoài cổ đầu Xuân

Giữa lúc hầu như đã đặt chân đến Horaniu, Ijuin phát hiện 4 khu trục hạm địch xuyên qua đêm tối.

Một cơn bão ập bất thình lình che phủ mọi vật. Lần này cơn mưa nghiêng phần lợi thế về phía địch, lúc ấy vẫn chưa phát hiện các khu trục hạm của Ijuin. Mò mẫm trong bóng tối như bưng, và chợt nghĩ đến các khẩu trọng pháo có radar hướng dẫn của đối phương, Ijuin đã lưỡng lự. Ngay lúc đó, phòng truyền tin trao ông một công điện: “Một thám thính cơ Nhựt phát hiện 4 tuần dương hạm và 3 khu trục hạm địch từ hướng Tây tiến về phía Bắc Vella Lavella.”

Ijuin gật mạnh đầu, và bình thản ra lệnh cho nhóm tàu của ông xoay hướng. Báo cáo này hoàn toàn sai lầm, và đã dẫn đến hầu hết những sai lầm tiếp theo khác của Nhựt trong trận đánh này. Làm sao báo cáo này đáng tin cậy và được phổ biến? Câu hỏi chưa bao giờ có giải đáp dứt khoát. Theo tôi phỏng đoán, viên phi công của thám thính cơ là một tay mới vào nghề. Hắn ta có thể đã nhìn thấy nhóm 3 khu trục hạm Hoa Kỳ thấp thoáng qua các cụm mây, hắn ta bay qua vị trí khác và hướng khác, rồi lại quan sát. Cứ như vậy, hắn ta đã nhìn một nhóm tàu địch thành hai hoặc thành ba, và nhắm mắt báo cáo bừa. Ðó là một sai lầm nghiêm trọng và tai hại thật sự.

Nếu báo cáo quan sát đầu tiên này chính xác, toàn thể quang cảnh của trận đánh sẽ khác biệt hẳn. Theo báo cáo, lực lượng đối phương gồm 4 tuần dương hạm. Một tuần dương hạm mang hỏa lực gấp 10 lần một khu trục hạm và loại tàu này còn được trang bị những pháo khẩu điều khiển bằng radar rất hữu hiệu. Mặc dù Ijuin biết trong tình trạng đêm tối và mưa gió radar sẽ hoàn toàn vô dụng, nhưng các chiến hạm của ông không thể nào đương đầu nổi với lực lượng đối phương hùng hậu như vậy. Do đó, ông chỉ còn một cách lựa chọn mà thôi: Xoay hướng.

Khi công điện chuẩn bị đổi hướng đến chiếc Shigure, tôi đã rất kinh ngạc về sự xuất hiện quá sớm của địch quân, nhưng tôi không có lý do nào để ngờ vực sự chính xác của báo cáo do thám thính cơ cung cấp. Tôi chỉ thoáng hình dung vẻ mặt u sầu của Ijuin khi bỏ ngang kế hoạch đã được sắp xếp của ông. Ông đang ở vào một tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Ông chỉ có 2 đường để chọn, đình chỉ hẳn hoặc cố gắng tiếp tục nhiệm vụ. Lực lượng hùng hậu hiện thời của ông không tương xứng chút nào với nhiệm vụ di tản nhỏ bé được giao phó. Do đó, bỏ ngang nhiệm vụ, ông sẽ không còn mặt mũi nào mà nhìn thiên hạ. Hơn nữa, không có lý lẽ nào để tin tưởng cuộc hành quân di tản này một khi hoãn lại để thực hiện lần sau sẽ gặp một lực lượng địch yếu kém hơn.

Trong khi Ijuin bị giày vò với muôn ngàn ý nghĩ và nhóm tàu của ông tiếp tục chạy về hướng Nam với vận tốc 26 hải lý, Ðại tá Frank R. Walker trên soái hạm Selfridge, dẫn đầu một nhóm 3 khu trục hạm Hoa Kỳ Ralph Talbot, Taylor và La Valette thuộc Task Unit 61.3.4 (Hải đội 4, Hải đoàn 3, Hải lực 61), đã phát hiện những gì mà ông ta đoán quyết là một đoàn hải vận hạm của Nhựt. Lúc đó là 23g31 (giờ địa phương). Và trong khi Walker ra lệnh cho các chiến hạm thuộc quyền của ông gia tăng tốc lực lên 23 hải lý để chạy đua với “đoàn hải vận hạm” Nhựt, ông đã gọi thêm một nhóm 3 khu trục hạm Hoa Kỳ khác, hiện đậu ở cạnh bờ biển phía Bắc New Georgia, cách 20 dặm phía Tây vị trí của ông.

Có thể đêm đẹp trời này là đêm của biến cố, đêm của định mạng. Thời tiết bỗng vụt trong sáng đến nỗi có thể nhìn thấy các mục tiêu cách xa trên 15,000m, nhưng thỉnh thoảng các đám sương mờ và hơi nước bốc lên che khuất hẳn tầm nhìn. Ðại tá Walker, qua radar, đã nhìn thấy các chiến hạm Nhựt, trong khi Ijuin không hay biết gì đến sự có mặt của các khu trục hạm Hoa Kỳ.

Tuần sau: 

Chương XXXIX

Tử chiến Vella Lavella

Tameichi Hara, Đông Kinh 1958

Bản Anh ngữ Japanese Destroyer Captain, Fred Saito & Roger Pineau, 1960. Bản dịch Nguyễn Nhược Nghiễm, Sàigòn 1974

Trần Vũ hiệu đính từ bản dịch Les Torpilleurs du Soleil Levant, René Jouan, 1962

Minh họa từ trang World of Warships