Trung đoàn 7 Tán binh Algérie thành lập năm 1913 gồm 4 tiểu đoàn 1, 2, 4, 5  là trung đoàn gốc của thống chế Juin khi còn là thiếu tá.

Ngày 14 tháng 4-1951 trung đoàn này rời Marseille sang Đông Dương trên du thuyền Pasteur sức chứa 5,000 binh sĩ. Ngày 1 tháng 5 cặp bến Vũng Tàu rồi ra Hải Phòng. Tiểu đoàn 5 đóng ở Hải Dương tăng phái cho Liên đoàn 6 Lưu động làm trừ bị Bắc-Phần. Ngày 31 tháng 12-1953 tiểu đoàn này xuống Điện Biên Phủ.

Từng đánh trận trong thế chiến rồi tham dự hầu hết các cuộc hành quân lớn ở Lục Nam, Đáp Cầu, Phủ Lạng Thương, Ninh Bình, Phủ Lý, Nam Định… Tiểu đoàn 5 Tán binh Algérie là một đơn vị dày dạn trận mạc.

Erwan Bergot ghi lại trận ác chiến trên đồi Gabrielle qua đôi mắt của trung úy Sanselme, sĩ quan Ban 2 của tiểu đoàn. [Trần Vũ]

Kỳ 2

Trận Đấu

Đêm 14 tháng 3-1954

Ðúng là đến phút đó, Gabrielle đã nhận nhiều tấn đạn pháo kích. Nhiều hầm sụp, nhiều giao thông hào sạt lở nhưng lính Bắc-Phi nằm sâu phía trong, núp dưới hố và trú ẩn trong các công sự. Ngay khi pháo dứt, mọi người đều biết màn “tiền pháo” đã xong, giờ là lúc đấu tay đôi vì bộ binh địch sắp tràn tới. Các đại đội trưởng báo lên tiểu đoàn rồi gọi cho các trung đội: – Ðến phiên các anh.

Ðến lượt các trung đội trưởng ra lệnh ngắn: “Ra hào!”

Không gấp gáp, bằng động tác thành thạo của lính chuyên nghiệp, lính ra vị trí tác chiến đã định trước; tỳ bá súng vào bả vai, kiểm soát các dây đạn, xếp các băng đạn trung liên và lựu đạn trong tầm tay, rồi chọn mục tiêu.

– Khai hỏa!!

Lệnh phát ra khi Việt Minh chỉ còn cách dưới 10 thước, đang tin chiến thắng, lúc bị quét ngã bằng hàng loạt đạn dày đặc của súng trường carbine M1 với tiểu liên MAT-49, cắt ngang bằng từng tràng đại liên Browning từ các lô-cốt trực xạ. Ngay vào lúc bộ-đội vướng kẽm gai.

Trên không, một chiếc Dakota C-47 thả hỏa châu soi sáng làm cho trận tấn công đêm thuận lợi cho phía tấn kích biến thành một trận đánh không bóng tối, có lợi cho bên phòng thủ. Hết đợt này đến đợt khác, Việt Minh liên tiếp bị chặn lại từ cự ly có thể xung phong. Nhưng đối phương tiếp tục xông lên như những đợt thủy triều, chỉ lùi lại một lát để tái chấn chỉnh rồi lại xông lên. Chính lúc đó pháo từ Phân khu Trung tâm do trung úy Collins, tiền sát viên pháo binh trên Gabrielle hướng dẫn, dập xuống đội hình địch bằng các loạt 105 ly đạn miểng nổ cao, cùng với cối nặng 120 ly. Cối 81 ly cơ hữu của tiểu đoàn và 60 ly ở các đại đội hợp lực [4].

Tiếng nổ ran như sấm rền dưới địa ngục, tới mức các sĩ quan phải hét thật to và ra lệnh bằng cử chỉ. Dưới ánh hỏa châu, chiếc bóng của họ méo mó biến dạng, miệng há to, cánh tay vung vẩy, bàn tay xòe rộng trông như quỷ dữ. Ở bộ chỉ huy tiểu đoàn, thiếu tá Mecquenem chăm chú theo dõi tình hình trận đánh. Ðịch công đã trên 45 phút nhưng chưa chiếm được tuyến nào. Việc “diệt gọn” Gabrielle theo ước vọng của các chính ủy Cộng sản là một ảo tưởng. Gabrielle, như một thánh nữ vờ ngủ say chờ phút định mệnh. Ðúng thời khắc, thiên thần thức giấc, hầu như không bị trầy xước trở nên hung dữ như bò mộng ra đấu trường.

Nhưng Việt Minh vẫn tấn công trên toàn cứ điểm. Ðại đội 1 của đại úy Narbey mặt Tây-Bắc, Ðại đội 4 của trung úy Moreau mặt Ðông-Bắc đều đã đụng. Ðịch còn tấn kích cả mặt Ðông-Nam và Tây-Nam trong khu vực của Ðại đội 3 của đại úy Gendre và Ðại đội 2 của trung úy Botella. Ðịch đông nghẹt trên các sườn đồi nhưng không tiến lên được một thước.

9 giờ đêm. Mecquenem báo với De Castries:

– Các con tôi giữ được.

Mecquenem không sai. Một giờ mười lăm phút giao tranh dữ dội đã trôi qua nhưng Việt Minh không thu kết quả. Ðại úy Narbey báo cáo:

– Tụi nó chùn lại trước mặt tôi. Giọng Narbey trầm tĩnh.

Năm phút sau, trung úy Moreau cũng báo cáo y như vậy, không quên mấy chai rượu chát trong câu lạc bộ tiểu đoàn.- Tụi nó lui đúng lúc! Tôi khát rồi…

Ðã có lúc, lính Algérie trên cứ điểm nghĩ Việt Minh đã bỏ cuộc. Nhưng chỉ là một đợt dừng. Lúc bộ-đội ngưng tấn công thì pháo Cộng sản thay thế, bắn phá ác liệt hơn.

Lần này pháo địch tập trung dập xuống đỉnh đồi, nơi đặt bộ chỉ huy và vũ khí nặng. Bụi khói dày đặc tới mức hỏa châu không còn soi rõ chiến trường nữa. Dưới mưa pháo, các liên lạc viên nhảy từ hào này sang hào khác. Y tá cáng thương binh ra khỏi vị trí và lính tiếp tế đạn dược ra tuyến đầu. Nhịp súng liên thanh dồn dập cuồng nộ. Tất cả mọi họng súng đều khạc lửa ở cả hai phía.

Trung úy Clerget, chỉ huy Phân đội Súng cối nặng Lê dương tăng phái, kêu lên:

– Nhồi cối phát điên!

Phân đội phó Timmermans không trả lời, cũng không gật đầu, vì đã hoàn toàn điếc đặc.

Sơ đồ phòng thủ cứ điểm Gabrielle với phân bố các đại đội

oOo

Một quả 75 ly Không Giật nổ tung ngay trên mép hào hất trung úy Moreau ngã ụp giữa đám bụi sỏi đá. Ðại đội trưởng Ðại đội 4 gượng dậy, rũ hai ống tay áo như một võ sĩ quyền Anh vừa bị đấm một quả direct vào thẳng mặt. Hai tay Moreau đau nhói nhưng khi lấy tay sờ không có vết thương. Riêng đồng hồ đeo tay là bị bể. Mặt kính vỡ. Hai cây kim dừng lại ở con số 12 giờ 10 phút đêm.

Xem thêm:   Chợ ngày rằm

Moreau gọi về bộ chỉ huy tiểu đoàn, bằng máy truyền tin SRC-300:

– Không gì mới! “R.A.S!”… (“Không gì khác”-“Rien à Signaler”).

Rồi thêm:

– Vậy là lính Bắc-Phi của tôi cầm cự giỏi hơn Lê dương trên Béatrice đêm trước!

Tiểu đoàn phó Carré đáp khô khan:

– Không phải là cuộc thi giữa lính Algérie với lính Lê dương! Phải ngăn Việt Minh!

Từ 9 giờ tối, pháo địch không lúc nào ngừng, cũng không giảm. Ngược lại trong khoảng 20 phút tức thì, Việt Minh nã thêm cối 120 ly nổ chậm, không phát nổ tức khắc khi chạm mục tiêu mà một giây sau khi chui xuống đất làm lung lay các lô-cốt, xé nát vách hầm, phá hủy những hầm đào sâu nhất. Thương vong mỗi lúc một nhiều. Gabrielle bắt đầu sứt mẻ.

– Sanselme đâu? Tôi mất liên lạc với trung đội 3.

Ðại úy Narbey, đại đội trưởng Ðại đội 1 yêu cầu bộ chỉ huy tiểu đoàn tung trừ bị.

Trung úy Salseme gật đầu, bước ra tập họp trung đội phản kích và dẫn đầu cánh quân men theo chiến hào ra mặt Bắc cứ điểm. Lính Bắc-Phi đã dày dạn trận mạc, không để ý đến pháo đang rơi vãi chung quanh. Nét mặt người nào cũng rắn như đá với da tay ngăm nắm chặt súng đã lên đạn. Ði sau cùng là công binh chiến đấu trang bị súng phun lửa đeo bình chứa xăng trên lưng. Bước chân họ nặng nhưng vững chãi như đôi chân nông dân sắp phun bột sulfate lên các ruộng nho để trừ sâu.

Việc tái chiếm vị trí của trung đội 3 diễn ra cấp kỳ. Ðại úy Narbey trỏ về phía địch xâm nhập. Sanselme lập tức phát tay cho đơn vị xông lên. Không một tiếng hô thét hay một động tác nóng nảy nào. Duy nhất ngón tay hiệu lệnh và binh sĩ hiểu phải làm gì. Lỗ tai thẩm âm tinh tường của họ biết nơi nào địch chọc thủng. Ném lựu đạn rồi là nhảy từ hào này sang hào khác. Giống một cỗ máy bôi trơn. Tung lựu đạn. Quạt tiểu liên. Xông lên phía trước. Lại quăng lựu đạn. Bắn thêm một loạt rồi xông lên nữa.

Ðôi khi vấp phải chống trả quyết liệt, lập tức toán trang bị súng phun lửa nhập trận phun ra một cuồng lửa khủng khiếp quét dọc hào. Ba giây đồng hồ, không hơn, cuộc tái chiếm tiếp tục.

Trong một góc chót cùng của trung đội 3, một nhóm lính Bắc-Phi vẫn còn cố thủ chung quanh trung sĩ nhất Abderrahmane là trung đội trưởng. Sanselme gọi to:

– Labès, Abderrahmane?

(Phương ngữ Labès trong tiếng Ả-rập mang nghĩa Ça va trong tiếng Pháp là How is going, là… “OK” không).

Trung sĩ nhất Abderrahmane gật đầu:

– Labès, trung úy. Máy truyền tin bể nên tôi không có cách…

Viên trung sĩ không nao núng. Mất liên lạc, cũng không biết chắc đại đội còn giữ được tuyến hay không, Abderrahmane vẫn cố thủ với lính sống sót.

Trung đội phản kích quay trở lại trung tâm cứ điểm, thâu nhặt thương binh rải rác. Tay áo xắn cao, trung sĩ nhất Soldati cùng y tá đang bó các chỗ gẫy, buộc nẹp, băng vết thương. Ba chục thương binh đợi đến phiên. Nhóm lính băng xong quay về vị trí chiến đấu, không nói một câu. Với họ, an nghỉ là sau khi chết.

Bên cạnh trạm xá, diễn ra trước mắt Sanselme cảnh tượng khác. Xác chết dồn dập đưa về đây, đợt nhì đã chồng lên đợt đầu, vài tấm bạt phủ vội lên những thi hài đứt lìa.

– Sanselme đâu? Lệnh trình diện.

– Có tôi. Sanselme gập tay chào.

Ðại úy Carré vắn tắt:

– Ðịch xâm nhập giữa Moreau và Narbey. Moreau yêu cầu lấp kẽ hở. Anh thi hành.

Lần này, đến lượt trung sĩ nhất Rouzic đi đầu. Rouzic bước dài nhanh trong hào. Bám sát phía sau là toán xung kích. Rouzic không thốt lời nào, không một biểu hiện đã hiểu nhiệm vụ, nét mặt lạnh tanh vô  cảm. Rouzic luôn mang gương mặt tượng đá, khi nhận lệnh không nhíu mày, không yêu cầu nhắc lại vì đã nhập tâm và sẽ thi hành từng chữ.

Lúc đơn vị cứu ứng quay về, thân thể Rouzic lấm lem đất, quân phục tả tơi hơn nhưng thái độ không thay đổi.

– Labès! Mọi thứ ngăn nắp.

Sau câu nói đơn giản, Rouzic lặng lẽ dẫn lính về vị trí cũ.

Trung úy Pierre Sanselme ở Điện Biên Phủ

oOo

Trong hầm chỉ huy, thiếu úy truyền tin Larchey nhận xét:

– Cường tập có vẻ giảm đi!

Trung sĩ kiêm thư ký Budet, ngẩng đầu khỏi cuốn sổ tay ghi các bức điện, lắng tai nghe. Im lặng đột ngột thay thế tiếng động địa ngục của trận pháo kích vụt lạ lùng. Budet lẩm bẩm:

– Chưa bao giờ yên tĩnh dịu dàng như vậy!

Ðối diện Ban thư ký, hai thiếu tá Kah và Mecquenem vừa nhấm nháp pâté hộp vừa nghe báo cáo của đại úy Suzineau, chỉ huy Ðại đội Trợ chiến. Dựa vách hầm, Sanselme cũng tận dụng đợt im lắng tạm thời để ăn chút ít. Trên chiếc bàn nhỏ gắn sát tường, gần Sanselme, là một trong bốn chai rượu của Moreau.

Larchey hỏi:

– Tụi nó đánh mình bao lâu? Giờ là mấy giờ?

– Hai rưỡi sáng.

– Chúng nó thối lui hay sao? Larchey thắc mắc.

Xem thêm:   69 Năm Điện Biên Phủ - Đêm Gabrielle (kỳ 6)

Thiếu tá Mecquenem từ từ quay về phía Larchey:

– Ðừng có ảo tưởng. Gọi cho các đại đội, tận dụng lúc này cho lính ăn và bổ sung đạn dược.

Thiếu tá Kah thêm:

– Tụi nó lấy lại sức. Nhưng sẽ tái tấn công. Còn bốn tiếng đồng hồ nữa trời mới sáng.

Thiếu tá Kah không nhầm nhiều. Nhưng trì hoãn tiến công không nhằm cho bộ-đội dưỡng sức, càng không vì quân trú phòng mà chính vì Giáp cần thay Sư đoàn 308 của Vương Thừa Vũ đã tổn thất quá nhiều để có thể bứng Gabrielle. Sau 6 giờ đánh công kiên, Vương Thừa Vũ đã mất hơn 1/3 quân số: 1,200 tử vong, số bị thương gấp đôi. Giáp buộc phải thay 308 bằng Sư đoàn 312 của Lê Trọng Tấn, là sư đoàn đã san bằng đồi Béatrice đêm hôm trước. Bộ-đội của Lê Trọng Tấn đã có 24g nghỉ và chủ công đêm nay là Trung đoàn 165 hãy còn nguyên vẹn vì chưa xung trận. [5]

Lắng dịu làm quà cho Gabrielle chấm dứt lúc 3 giờ sáng 15 tháng 3.

oOo

Ở Ðại đội 4 giữ mặt Ðông-Bắc, Moreau là sĩ quan đầu tiên chứng kiến làn sóng Việt Minh:

– Tụi nó xung phong nữa!

Pháo dọn đường lần này đồng loạt dập xuống cứ điểm, dữ dội hơn những lần trước. Có phải vì bất thình lình hay vì vừa nếm cảm giác yên tĩnh lúc nãy? Nhưng rõ ràng là lần này, tất cả các kích cỡ đại bác địch cùng ụp xuống căn cứ với nhịp độ nhanh. Cối 120 ly là vũ khí đáng sợ nhất. Cối giã tập trung xuống Gabrielle, cào sâu lòng đất, lật tung hầm hố, vùi lấp lính.

Trung úy Clerget chỉ huy phân đội 4 súng cối 120 ly của Lê dương tăng phái, đóng trên đỉnh đồi, thất thểu vào hầm chỉ huy, mắt đờ đẫn, cử chỉ co giật, miệng ấp úng:

– Phân đội súng cối… chết hết rồi. Rơi giữa vị trí. Chết hết… Không còn ai…

Thiếu tá Mecquenem gần như không quay lại, hiểu tức khắc phải giảm cơn hoảng loạn, bằng giọng lạnh lùng:

– Tự vực dậy đi! Về Ðại đội 2 của Botella. Làm những gì Botella ra lệnh cho anh.

Như nhận tát tai hay gáo nước lạnh, Clerget lấy lại tác phong. Một chút hồng hào hiện lên gò má.

Một trái pháo bất ngờ rơi xuống mái nơi có những xà gỗ lớn chống đỡ. Khói ùa vào hầm, dâng lên trần. Các sĩ quan phải cúi gập người để thở. Mecquenem không chút nao núng.

– Về vị trí mới của anh!

Ðến lúc này Clerget mới nghiêm chào rồi bước ra.

Từ máy truyền tin vang tiếng nói:

– Ðây Moreau! Tôi cần trừ bị bịt ngay lỗ thủng ở bìa!

Mecquenem chỉ tay về hướng Sanselme. Viên trung úy chỉ huy trung đội commando liền ra ngoài trong lúc Moreau vẫn tiếp tục nói qua loa khuếch âm:

– Tụi nó chơi trội! Ðào đất ngay dưới chân đại đội tôi. Y chuột chũi! Tụi nó đào nhanh lắm. Tốc độ không tin nổi…

Sanselme vừa xuống giao thông hào. Viên trung úy còn phải chạy 20 thước nữa mới đến chỗ của trung sĩ nhất Rouzic và trung đội phản kích. Nhưng Sanselme không đi hết đoạn đường, cảm giác bị một lực ghê gớm đập vào lưng. Quay đầu lại, Sanselme nhìn thấy bộ chỉ huy tiểu đoàn trong khoảnh khắc như vỡ tung trong hỏa ngục. Những cuồng lửa và khói bụi phụt ra từ cửa hầm, thổi tung nóc hầm, như một cơn lốc xoáy cuồn cuộn bốc lên không trung cuốn theo những tấm ván, gạch đá, bao cát và vô số mảnh vụn. Hai quả pháo, có lẽ ba trái, rơi trúng giữa hầm phá nát bộ chỉ huy vụt biến mất.

Sanselme nghe thấy tiếng kêu rú, tiếng thét, tiếng rên. Viên trung úy không hề nghĩ là vô phương cứu những người sống sót, nên vẫn cố gắng luồn qua những xà gỗ đang đổ xuống cản lối vào hầm. Nhưng không thể tiến xa. Một luồng lóe sáng chói lòa bất giác làm Sanselme nhắm nghiền mắt, trong lúc như có một lưỡi liềm khổng lồ chém ngang hai bắp chân.

Sau vài giây choáng váng, Sanselme định thần và thấy máu tuôn xối xả từ hai bắp vế. Kỳ quặc là Sanselme không thấy sợ, hoặc nỗi sợ hãi đã biến mất nhường cho sự tỉnh táo. Viên trung úy tự nói với mình: “Vậy là bị thương.”

Bằng động tác dè dặt, Sanselme xé hai ống quần rách bươm, sờ nắn chung quanh chỗ chảy máu để xác định mức độ vết thương. Hai bắp đùi nát bét. Những thớ thịt bị cắt rũ xuống hai đầu gối.

– Phải xuống trạm xá!

Sanselme cố lết bằng lưng và hai khuỷu tay, chợt nhìn thấy một cảnh tượng kinh khủng ngay phía trước đầu. Toàn bộ hầm thương binh cũng đã bị phá hủy. Giữa đám xác chết tung tóe mọi phía có cả thi thể trung sĩ nhất quân y Soldati. Sanselme đành tự lo cho chính mình.

Mọi thứ chung quanh nhơm nhớp. Tiếp tục lê, không biết là đã lết bằng tay hay bằng vai, Sanselme lần mò lấy từ trên giá xuống một túi cứu thương. Rồi dưới ánh đèn pin, bắt đầu tự băng bó. Vấn đề phức tạp là phải xếp những mẩu thịt vào đúng chỗ cũ, rắc bột sulfamides, bôi thuốc đỏ rồi kẹp bằng nẹp trước khi bó chặt lại.

Khi đã xong Sanselme dùng hai tay bấu vào thành hào để đứng lên. Viên trung úy cố bước đi, vì còn một nhiệm vụ phải thi hành là ra lệnh cho trung đội phản kích tiếp cứu Ðại đội 4. Cuối cùng Sanselme đến được chỗ của trung sĩ nhất Rouzic.

Xem thêm:   Con trăn rừng kè

– Trung úy bị thương?

– Ừ. Què chân.

– Trung úy cần tụi tôi?

– Có. Ra cứu Ðại đội 4.

– Tôi dẫn lính xông ra ngay. Trung úy cố xuống hầm trú dưới câu lạc bộ, tôi gặp trung úy sau.

Rouzic nhấc bình xăng napalm đeo lên lưng, cầm súng phun lửa ra đi.

Sanselme cũng lết được tới phòng ăn, hiện dùng làm hầm chỉ huy tạm. Giọng trung úy Collins, tiền sát viên pháo binh, oang oang gọi pháo bắn chặn. Collins điều chỉnh pháo yểm điềm tĩnh, như đang thực tập, không lộ một chút hoảng hốt:

– Thâu ngắn “23”! Ngắn nữa. Câu xuống phía Nam “50”…

Sanselme nhìn thấy thiếu tá Mecquenem đứng trước mặt Collins, quân phục phủ ngập bụi, rách nát, lấm đất xen vết máu nhưng nét mặt bình tĩnh vẫn không thay đổi, tuy tia mắt xanh hơi dao động.

– Chịu được không, Sanselme?  Mecquenem lên tiếng.

– Ðược, thiếu tá. Bộ chỉ huy bị nặng?

– Nặng. Thiếu tá Kah đứt lìa một chân. Những người khác chết hết.

Sanselme ngồi xuống, óc quay cuồng.

– Ăn chút đi. Anh mất máu nhiều.

Câu nói thân thiện của vị tiểu đoàn trưởng như vang vọng từ nơi xa xôi, như trong giấc mộng. Sanselme nhai máy móc mẩu phó-mát, rồi tu cổ chai rượu chát của Moreau. Ðến lúc chai rượu cạn hết, Sanselme mới cảm thấy cơn khát cháy bỏng. Sanselme đứng dậy, ngạc nhiên vì thấy mình gần như khỏe mạnh. Trí óc lại bắt đầu minh mẫn và không còn thấy đau, chỉ hơi tê ở chân phải sưng tấy từ háng xuống mắc cá chân, mặc dù đã băng bó.

– Anh làm gì? Mecquenem hỏi.

– Tôi ra xem Rouzic đến đâu.

Ðã 5 giờ sáng. Hướng Ðông, tấm màn xám tái nhạt dần bên trên đồi Béatrice báo hiệu sắp bình minh. Tiếng gầm của trận đánh vẫn tiếp tục. Gabrielle có vẻ cầm cự được. Vậy mà, một câu ngụ ngôn vô lý trở đi trở lại, ám trong đầu Sanselme: “Ðến sáng sói sẽ ăn thịt…”

Sanselme bực tức, cố xua đuổi câu đó. Chưa! Sói chưa ăn thịt cứ điểm mang tên thánh nữ Gabrielle. Rouzic là sự xác tín xoa dịu này. Trung sĩ nhất Rouzic đã quay lại, một cánh tay quấn vải buộc quanh cổ, báo cáo bằng giọng bình thản với tròng mắt sáng:

– Không bịt được chỗ địch chọc thủng. Nhưng không sao… đã dọn dẹp  sạch sẽ. Mới đầu bằng lựu đạn, rồi bằng chất nổ. Cuối cùng là phun lửa.

Qua cửa miệng Rouzic, ngôn từ mất đi sức gợi tàn bạo của chiến tranh. Giống một đầu bếp đang hướng dẫn cách nấu ăn: “nướng lửa nhỏ, để thật thơm, đốt bằng cognac…” Sanselme bật cười. Cơn sốt và sự mệt nhọc tan biến. Có phần nhờ rượu.

Rouzic báo cáo tiếp:

– Phải lui về tuyến thứ hai. Tôi đã đóng các giáp ranh bằng chướng ngại vật. Phía sau bố trí trung liên. Sẽ giữ được.

Nhưng không giữ được. Vài phút sau, Ðại đội 1 báo cáo đặc công địch đào hào áp sát đã vượt qua tuyến ngoại vi, vào một góc chết, đạn bắn cản không nhắm tới được.

Ðại úy Narbey yêu cầu tăng viện:

– Không cách nào đánh bật tụi nó ra. Tôi mất liên lạc với trung đội của Abderrahmane.

Rouzic lại xung trận. Sanselme quyết định:

– Tôi đi với trung sĩ.

Trung đội commando chỉ còn hai chục tay súng. Nhưng không một ai bồn chồn mà vẫn lạnh lùng như khi vừa khai trận; duy râu quai nón rậm ra thêm nét dữ dằn.

Toán commando bò qua các lối hào và hố đại bác, tới được tuyến giao tranh. Lính lẳng lặng nấp sau một thân lim lớn, rơi từ nóc một hầm, rồi đồng loạt quăng lựu đạn xuống rãnh đầy Việt Minh. Những nháng lửa cùng lúc với một loạt tiếng nổ. Những kêu rú đau đớn. Liền tiếp là những tiếng hô giận dữ: “Ðộc Lập! Ðộc Lập!”… “Tiến lên! Tiến lên!”…

Rouzic thở hắt:

– Tiên sư! Càng giết, tụi nó càng đông. Mokrane, đem súng phun lửa tới!

Mokrane trườn đến. Dưới rạng đông hàm râu xoắn và tia mắt đen nhánh dưới vành nón sắt sát trán làm tăng độ quỷ sứ. Mokrane ý thức dùng napalm phải chơi cho thật ngọt, cẩn thận chọn vị trí, mở hết độ phun xăng, hướng mũi súng vào góc chết.

– Thổi đi… Rouzic thì thào.

Tiếng cách nhẹ khô khan rồi là tia xăng phụt ra phừng cháy. Hừng đông lùi lập tức, trở lại thành đêm vì vòi lửa quá mãnh liệt. Cuồng lửa trào ra như phún thạch đỏ cam, với tiếng động xèo xèo của nước tưới lên sắt nóng. Cách mươi thước, các bụi cây và cỏ dại mọc ven bờ rãnh phựt lửa bốc cháy. Bên dưới là những thi thể.

Ðám bộ-đội rú lên như động vật bị thọc huyết. Tiếng tru gào nhỏ dần thành ọc ọc.. phọp phọp.. Từ chỗ khai hỏa, Rouzic và Mokrane nghe rõ từng âm thanh của thịt chín rộp, của gân cong lên trong phát nổ của lựu đạn đeo quanh lưng. Mùi phân nướng khét và thịt rô-ti nồng nặc. Một tay lính Bắc-Phi nôn ọe.

(còn tiếp)

Trần Vũ dịch từ bản Pháp văn Les 170 Jours de Dien Bien Phu của Erwan Bergot, Nxb Presses de la Cité 1979, Chương Gabrielle từ trang 114 đến 145. Trong dấu ngoặc (..) là phụ chú thêm của người dịch.

[5] Là Trung đoàn Lao-Hà-Yên kết hợp từ các tiểu đoàn chủ lực miền của các tỉnh Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái được Hồ Chí Minh ban danh hiệu “Thành Đồng Biên Giới” thuộc Đại đoàn Chiến Thắng là phiên hiệu của Sư đoàn 312.