Báo cáo của Cục Quản lý Lao động Ngoài nước (Bộ Nội vụ Việt Nam) tại hội nghị “Thúc đẩy khai triển hiệu quả các chương trình đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo các thỏa thuận quốc tế” vào ngày 24/11/2025 cho biết trong 10 tháng đầu của năm 2025, nước này đã có 128,044 người Việt (gồm 44,752 lao động nữ) đã đi “xuất cảng lao động”. Ước tính đến cuối năm 2025, tổng số người Việt đi “xuất cảng lao động” tại các nước sẽ gần 700,000 người (đạt 130% kế hoạch giai đoạn 2021-2025).

Chuẩn bị lên đường “xuất cảng lao động” sang Đài Loan    

Lao động Việt “xuất cảng” về đâu?

Trong các nước nhận nhập cảng lao động người Việt có thể kể tới những thị trường hàng đầu như Nhật Bản (57,215 người), Đài Loan (51,646 người), Hàn quốc (9,599 người), Trung quốc (8,925 người), Malaysia (7,446 người)…. Cạnh đó còn có một số thị trường mới nổi như Arab Saudi, Angola, Iraq, Australia, Đức, Rumani, Hungary, Ba Lan, Phần Lan… Theo thống kê, gần phân nửa trong số các “lao động xuất cảng” hiện đang làm việc tại 40 quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc các ngành công nghiệp sản xuất, chế tạo, nông nghiệp, ngư nghiệp, xây dựng, đóng tàu, lâm nghiệp, giúp việc gia đình… Số còn lại làm việc trong khoảng 25 nhóm ngành nghề khác.

Đi làm việc tại nước ngoài giúp nhiều người lao động VN có được mức thu nhập tương đối ổn định. Cụ thể, theo báo cáo của Trung tâm Lao động ngoài nước (Bộ Nội vụ), với lao động đi làm việc tại Hàn Quốc (chương trình EPS) có mức lương trung bình tối thiểu 35-40 triệu VNĐ/tháng; làm việc tại Nhật (theo chương trình IM Japan) có mức thu nhập bình quân 27-32 triệu VNĐ/tháng; làm việc tại Úc có mức thu nhập bình quân 65-70 triệu VNĐ/tháng…

Học ngôn ngữ và phong tục tập quán trước khi “xuất cảng lao động”

Anh Đặng Hoài Nam (34 tuổi, quê Tây Ninh) cho biết sau hơn 8 năm đi “xuất cảng lao động” Đài Loan với công việc thợ xây dựng, hiện anh để dành được khoản tiền kha khá cho bản thân và gia đình. Với mức lương 25 triệu VNĐ/tháng, trường hợp tăng ca thêm 2-4 giờ/ngày, thu nhập của anh được 30-45 triệu VNĐ/tháng. Tương tự, trường hợp chị Huỳnh Thu Vân (31 tuổi, quê Long An) làm giúp việc nhà ở Hàn Quốc hơn 4 năm qua cho biết: “Em bắt đầu công việc từ 7 giờ 30 sáng đến 17 giờ 30 chiều, mức tiền lương được 38 triệu VNĐ/tháng. Nếu tăng ca đến 20 giờ, tiền lương hơn 50 triệu VNĐ/tháng…”.

Xem thêm:   Nghề DJ

Nhìn chung, số người “lao động xuất cảng” đã góp phần đóng góp lượng ngoại tệ khá quan trọng cho VN (với tổng lượng kiều hối gửi/mang về nước quy ra tiền Việt tương đương con số 16.5-17,000 tỷ VNĐ/năm), đã gián tiếp giúp hỗ trợ “mạch sống quốc gia” cùng với các ngành như xuất cảng hàng hóa, dịch vụ, du lịch và kiều hối khác. Đáng chú ý, thành phần người trong lực lượng này chiếm đa số gồm các đối tượng chính sách (con em thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với nhà nước), người dân vùng sâu, vùng xa, quân nhân và công an sau khi xuất ngũ…

Thợ xây dựng người Việt ở Nhật Bản

Còn đó những tồn tại

Mặc dù vậy những số liệu và thông tin kể trên chỉ mới là “bề nổi” của vấn đề vì bên cạnh vẫn còn những mắc mứu và tồn tại khác. Trong đó, vấn đề lớn nhất ở chỗ có một số lượng lao động VN không nhỏ đã “xuất cảng lao động” với các hình thức “tự đi” hoặc “không chính thức” đang ngày càng gia tăng (còn gọi là lao động “chui”). Những người đi làm việc theo hình thức này hoàn toàn không thuộc nhóm đối tượng điều chỉnh của các Bản ghi nhớ (MOU) về việc phái cử và tiếp nhận lao động được ký giữa chính phủ VN và chính phủ các nước đồng ý tiếp nhận lao động và thường họ cũng không thông qua các doanh nghiệp hoạt động dịch vụ nào. Hậu quả là thời gian gần đây, rất nhiều lao động “chui” đã bị ngược đãi thậm chí phải bỏ lại mạng sống của mình nơi đất khách quê người” đặc biệt là tại các nước như Campuchia, Thái Lan, Đài Loan, Trung Quốc, Malaysia, Hàn quốc, Angola…

Xem thêm:   Bạo lực học đường

Cụ thể, từng xảy ra nhiều trường hợp người Việt sang Trung Quốc làm thuê do không có đủ thủ tục pháp lý đã bị chủ sử dụng lao động quỵt tiền công hoặc bị ức hiếp, ngược đãi, đánh đập. Với tình trạng như vậy, những người này cũng không dám khai báo với chính quyền sở tại vì sợ bị bắt, bị giam giữ, bị phạt tiền hoặc bị đưa trả về nước. Xót xa nhất là đã có những người Việt bỏ mạng khi đi làm thuê “chui” và sau đó được thông báo cho thân nhân của họ những thông tin chung chung như “gặp nạn” hoặc “bị tai nạn”. Đó là chưa kể khá nhiều người lao động do đi làm “chui” nên thường xuyên bị cảnh sát lùng sục, truy quét và để được yên thân bắt buộc họ phải chi tiền “bảo kê”, nếu không đưa sẽ bị đánh đập, khám xét, tống giam rồi tịch thu hết tiền bạc, tài sản.

Lao động nông nghiệp người Việt ở Australia

Nói chung, tình trạng người lao động VN đi “xuất cảng lao động” theo các kênh không chính thống cũng đồng nghĩa với việc họ dễ dàng gặp rủi ro về tính mạng, sức khỏe, tiền bạc mà không được cơ quan chức năng bảo vệ, trở thành nhóm những người rất dễ bị tổn thương. Ngoài ra còn có một số người dù được đi “xuất cảng lao động” theo những chương trình hợp tác nhà nước chính thống nhưng sau đó lại cố tình bỏ trốn do vi phạm kỷ luật, áp lực công việc, thu nhập kém hoặc điều kiện thời tiết quá khắc nghiệt; trình độ tiếng bản địa hạn chế… và trở thành lao động “chui”. Trong khi đó, hiện tại các bộ luật của VN vẫn chưa có quy định rõ ràng trách nhiệm của cơ quan nào trong việc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ đối với số lao động này để có thể đảm bảo quyền, lợi ích của họ được bảo vệ khi làm việc ở nước ngoài cũng như khi quay về nước.

Xem thêm:   Lịch sử truyền giáo & chữ quốc ngữ

…Đây cũng chính là những tồn tại thực tế mang tính chất “muôn thuở” của bức tranh “xuất cảng lao động” VN. Nếu không có phương cách xử lý rốt ráo, những hạn chế này chắc chắn ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín của lao động VN và sự bền vững của các chương trình đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo các chương trình phi lợi nhuận hoặc các thỏa thuận quốc tế.

“Phòng trọ” của “lao động xuất cảng” người Việt ở Angola

Bài và hình NS