Bản dịch tiếng Việt của Phạm Thị Hoài

Nhiều kỳ – kỳ 3

https://baotreonline.com/van-hoc/le-cheo/rainer-maria-rilke-thu-gui-mot-nha-tho-tre.baotre

Có thể dần dần một ngày nào đó, sau này, ông bước hẳn vào câu trả lời lúc nào chẳng biết. Có thể ông có sẵn trong mình khả năng hình thành và kiến tạo, là lối biểu hiện đặc biệt trong sáng và đầy ân sủng của đời sống; ông hãy tự tu dưỡng cho được như vậy, – nhưng hãy tin tưởng chấp nhận cái sẽ đến, ngay cả khi nó chỉ xuất phát từ ý chí, từ một thúc bách nào đó trong tâm khảm ông, thì cũng xin ông chấp nhận và đừng ghét bỏ gì hết. Vâng, tính dục thật nặng nề. Nhưng tất cả những gì chúng ta phải gánh vác đều nặng nề, hầu như mọi thứ nghiêm túc đều nặng nề, và mọi thứ đều là nghiêm túc. Ông chỉ cần hiểu ra điều ấy, và bằng bản năng và tư chất con người mình, bằng vốn liếng kinh nghiệm và tuổi thơ và sức lực mình, hãy thiết lập một quan hệ hoàn toàn riêng tư (không vướng bận bởi khuôn mẫu và tục lệ) với tính dục, được như vậy ông sẽ chẳng sợ đánh mất mình và chẳng sợ không xứng đáng với cái tài sản quý giá nhất đó.

Lạc thú thân xác là một trải nghiệm dục tính, không khác gì việc quan sát thuần túy, hay cái cảm giác khi một trái cây ngon no tròn trên lưỡi; nó là một kinh nghiệm lớn, vô tận, ban phát cho chúng ta, là một tri thức về thế giới, là tổng hoà và hào quang của mọi tri thức. Chúng ta đón nhận nó, điều đó không có gì là xấu; mà xấu là ở chỗ hầu hết mọi người đều lạm dụng và phung phí nó, dùng nó làm chất kích thích tống vào những chỗ mệt mỏi của đời mình, và dùng nó để phân tán thay vì tập hợp cực đỉnh khoái lạc. Con người cũng đã biến việc ăn uống thành một cái gì khác: thiếu thốn ở chỗ này trong khi thừa mứa ở chỗ kia đã khoả ngầu cái nhu cầu trong sáng đó, và những nhu cầu thiết yếu, sâu sắc, giản dị khác để đời sống có thể tái sinh cũng đã bị vẩn đục như vậy. Nhưng riêng từng cá nhân thì có thể làm chúng trong trở lại và sống trong trẻo (nếu riêng từng cá nhân vẫn bất khả vì quá lệ thuộc, thì khả dĩ là kẻ cô đơn). Kẻ cô đơn sẽ nhớ ra rằng, mọi cái đẹp nơi cỏ cây và muông thú đều ở dạng lặng lẽ muôn thuở của tình yêu và khát vọng, sẽ nhìn con thú cũng như ngắm cái cây nhẫn nại và tự giác giao hòa và sinh sôi và nảy nở, không vì lạc thú thân xác, không vì đau đớn thân xác, mà tuân theo những tất yếu lớn hơn cả lạc thú lẫn đớn đau và mạnh mẽ hơn cả ý chí và khả năng đề kháng. Ôi, ước gì con người hãy ngoan ngoãn hơn mà đón nhận điều bí ẩn tràn đầy trong cả những vật nhỏ mọn nhất nơi trái đất này, giữ gìn nó, chịu đựng nó nghiêm túc hơn, và thấy rõ nó nặng nề khủng khiếp chứ đừng coi nhẹ. Ước gì con người hãy tôn kính tính năng sinh sản của mình, một tính năng duy nhất, dù nó biểu lộ bằng tinh thần hay thể xác; bởi lẽ sáng tạo tinh thần cũng bắt nguồn từ sáng tạo thể xác, cùng một bản chất, và chẳng qua là sự lặp lại khẽ khàng hơn, mê mẩn hơn và vĩnh cửu hơn của lạc thú xác thịt mà thôi. Ý tưởng “làm kẻ sáng lập, sinh thành, kiến tạo” sẽ chẳng là gì hết nếu không được khẳng định và thực thi liên tục và rộng khắp thế gian, nếu không được vạn vật và muôn loài ngàn lần tán đồng – và hương vị của nó sở dĩ đẹp đẽ và phong phú khôn tả nhường ấy chỉ vì chứa chan ký ức thừa kế từ công cuộc tác thành và sinh nở của triệu triệu sinh linh. Muôn ngàn đêm ân ái đã lãng quên sống dậy trong một ý tưởng sáng tạo và ban cho nó tầm cao cùng vẻ cao sang. Và những kẻ hằng đêm đến với nhau, bện vào nhau trong lạc thú ấp ủ, là thực thi một công việc nghiêm túc, là góp nhặt ngon ngọt, chiều sâu và sức mạnh cho khúc ca của một thi sĩ nào đó rồi sẽ xuất hiện, sẽ đứng dậy để cất lời khoái lạc khôn tả. Họ gọi tương lai đến gần; và dù họ có nhầm lẫn và mù quáng choàng ôm nhau chăng nữa thì tương lai vẫn đến, một sinh linh mới trỗi dậy, và quy luật bừng tỉnh trên nền tảng của cái dường như là ngẫu nhiên, qua đó một tinh trùng khỏe mạnh giàu sức đề kháng sẽ len đến tế bào trứng đang rộng mở đón nó. Ông đừng để mình bị lung lạc bởi bề nổi; dưới tầng sâu tất cả đều trở thành quy luật. Và những kẻ sống sai và sống dở điều bí ẩn nêu trên (rất nhiều kẻ như thế) chẳng qua chỉ chuyển nó đi tiếp như một bức thư đóng kín mà không hay biết mà thôi. Và ông cũng đừng rối trí, vì cách mệnh danh thì đa dạng và bản thân các trường hợp thì phức tạp. Có lẽ trùm lên tất cả là một mẫu tính vĩ đại như khát vọng chung. Vẻ đẹp của nàng trinh nữ, một thực thể “chưa đóng góp gì” (như ông đã diễn đạt rất hay) là mẫu tính còn đang tự linh cảm, đang chuẩn bị, đang hồi hộp và khao khát. Còn vẻ đẹp của người mẹ là mẫu tính đang phục vụ, và trong lão bà là một ký ức lớn lao. Và tôi có cảm giác là trong người nam cũng có mẫu tính, cả về tinh thần lẫn thể xác; sự sinh xuất ở người nam cũng là một dạng sinh nở, và sinh nở chính là tác thành từ chốn dồi dào sâu kín nhất. Và có lẽ các giới tính gần gũi nhau hơn người ta vẫn tưởng, và khi người nam và người nữ thoát khỏi mọi nhầm lẫn và ác cảm, không còn tìm đến nhau như hai đối cực, mà chung lưng như anh em và láng giềng, như người với người, để đơn giản là cùng nhau nhẫn nại và nghiêm trang gánh cái gánh nặng chất lên mình là giới tính, đấy có lẽ sẽ là cuộc đại-cách-tân thế giới.

Nhưng tất cả những gì mà một ngày nào đó may ra là khả dĩ đối với số đông thì kẻ cô đơn ngay tự lúc này đã có thể chuẩn bị và xây đắp bằng đôi tay ít nhầm lẫn hơn. Vì thế, ông thân mến, hãy yêu lấy sự cô đơn, và hãy cam chịu nỗi đau nó gây nên bằng lời oán thán du dương. Ông bảo rằng những người gần gũi bỗng thành xa lạ, như thế là quanh ông đã bắt đầu xa vắng. Và khi tầm gần đã hoá xa thì tầm xa hẳn là đã xa tận những vì sao và mênh mông lắm; ông hãy mừng cho độ tăng trưởng của chính mình, đằng nào thì ông cũng chẳng đem ai vào đó được, và hãy tốt với những kẻ còn đang tụt lại, hãy an tâm và bình thản trước họ và đừng hành hạ họ bằng những hoài nghi của ông, đừng kinh khiếp họ bằng niềm lạc quan hay phấn khởi mà họ không hiểu nổi. Ông hãy tìm ra một cách chung sống giản dị và tin cậy nào đó với họ, không nhất thiết phải thay đổi khi ông khác đi và ngày càng khác đi; hãy yêu lấy nơi họ đời sống ở một dạng khác và hãy rộng lượng với những người đang già đi, họ sợ hãi nỗi đơn độc, còn ông lại tin cậy nó. Hãy tránh tiếp tay cho tấn thảm kịch giằng xé giữa cha mẹ và con cái, nó tiêu hủy rất nhiều sức lực của đám trẻ và tàn phá tình yêu của người già, là thứ tình yêu sưởi ấm và tác động mặc dù chẳng hiểu gì. Ðừng bắt họ khuyên bảo và cũng đừng mong họ cảm thông, nhưng hãy tin vào một tình yêu cất giữ cho mình như một gia tài thừa kế, và hãy cầm chắc rằng trong đó có sức mạnh và phúc lành, là nơi ông có thể đậu lại mà vẫn đi được xa.

Trước mắt, ông đang bước vào một nghề buộc ông phải tự lập và chỉ hoàn toàn trông cậy vào chính mình trong mọi phương diện, như thế là tốt. Hãy kiên nhẫn đợi xem đời sống sâu thẳm trong ông có bị bó buộc trong cái khung của nghề nghiệp đó không. Tôi coi đó là một nghề rất khó khăn và đầy đòi hỏi, vì bị ràng buộc bởi những khuôn mẫu nặng nề, và hầu như không dành chỗ cho phong cách cá nhân trong công việc. Nhưng ngay cả trong những hoàn cảnh hết sức xa lạ thì ông vẫn có nỗi cô đơn làm quê hương và chỗ dựa, và từ đó ông sẽ tìm ra mọi đường đi cho mình.

Tôi dành sẵn mọi lời cầu chúc theo bước ông đi, và tôi tin tưởng ở ông.

Một trang thư viết tay của Rainer Maria Rilke gửi nhà thơ trẻ Franz Kappus

Rainer Maria Rilke

5

Roma, 29 tháng Mười 1903

Ông thân kính,

Tôi nhận được bức thư đề ngày 29 tháng Tám của ông ở Florence, và mãi hôm nay – hai tháng sau – mới trả lời ông được. Mong ông thứ lỗi cho sự chậm trễ này, – nhưng tôi không ưa viết thư dọc đường, vì viết một lá thư đâu chỉ cần dụng cụ tối thiểu, tôi cần nhiều hơn thế: một chút yên tĩnh và cô đơn, và một khoảnh khắc không quá xa lạ.

Chúng tôi đến Roma khoảng sáu tuần trước, vào lúc thành Roma còn vắng vẻ, nóng bức, phát sốt, và thêm vào đó là những khó khăn thực tế trong sinh hoạt, khiến chúng tôi mãi không được yên ổn, và chốn tha phương với nỗi thiếu quê hương đè nặng trĩu.

Ngoài ra phải kể thêm là Roma (nếu ta chưa quen) những ngày đầu buồn ngột ngạt: cái không khí bảo tàng u ám và kém sinh động mà thành phố này thở ra, đống dĩ vãng (nuôi sống một hiện tại nhỏ nhoi) mà nó moi ra và gắng gượng bảo tồn, rồi mấy thứ đã biến dạng và hư hỏng đó lại được nống lên vô tận bởi được các học giả và những nhà ngữ học trợ lực cùng đám du lịch thường lệ hùa theo, mấy thứ đó chẳng qua là tồn đọng ngẫu nhiên của một thời và của một sự sống không phải là và không nên là sự sống của chúng ta. Cuối cùng, sau mấy tuần liên tục kháng cự, tuy còn lúng túng đôi chút, ta lại thấy ta tìm về chính mình, và tự nhủ: Không, nơi đây chẳng nhiều cái đẹp hơn nơi nào, và hết thảy những thứ đã qua bao tay thêm nếm và cải biên mà các thế hệ đều mãi ngưỡng mộ kia, chúng chẳng nghĩa lý gì hết, chẳng là gì hết, chúng vô hồn và vô giá trị; – nhưng nơi đây nhiều cái đẹp, bởi lẽ mọi nơi đều nhiều cái đẹp. Những dòng nước vô cùng sống động túa qua máng cổ vào thành lớn, nhảy múa nơi những vòi phun bằng đá trắng trên bao nhiêu quảng trường và tỏa vào những bể chứa rộng thênh thang, chúng dào dạt ban ngày và dào dạt lúc đêm về, đêm ở đây mênh mông, đầy sao và mịn mềm trong gió. Và những khu vườn, những đại lộ không thể nào quên, và những bậc thềm theo ý tưởng của Michelangelo, những bậc thềm xây theo mẫu nước chảy xuôi, – dòng đổ rộng rãi và mỗi bậc lại sinh ra một bậc, như mỗi lớp sóng sinh ra từ một lớp sóng. Ta thu nhặt bản thân qua những ấn tượng ấy, hồi lại chính mình từ đống ngồn ngộn đầy đòi hỏi đang nói năng và múa mép kia (ôi nó lắm mồm làm sao!), và học dần cách nhận ra những điều rất ít ỏi chứa đựng sự vĩnh cửu mà ta yêu, và sự cô đơn mà ta có thể khẽ khàng tham dự.

Hiện tại tôi vẫn ở trong thành, trên đồi Capitoline, cách bức tượng kỵ sĩ đẹp nhất còn lại của nghệ thuật La Mã không xa – tượng Marcus Aurelius trên lưng ngựa; nhưng vài tuần nữa tôi sẽ dọn đến một chỗ yên tĩnh và thanh đạm, một căn lầu gió cổ, khuất sâu trong một công viên, xa lánh chốn phố phường cùng những ồn ào và ngẫu nhiên của nó.

Tôi sẽ ở đó suốt mùa Ðông, vui với sự yên tĩnh lớn lao và chờ nó ban cho những giờ tốt lành và cần mẫn… Tôi sẽ viết dài hơn cho ông và sẽ nói về bức thư của ông khi đến đó, là nơi tôi được thoải mái hơn, như ở nhà mình. Hôm nay việc của tôi (lẽ ra tôi nên làm sớm hơn mới phải) chỉ là báo lại cho ông rằng cuốn sách ông nhắc đến trong thư (có đăng những tác phẩm của ông) đã không đến tay tôi. Nó có quay về chỗ ông không, có thể là từ Worpswede chăng? (Vì: bưu kiện không được phép chuyển tiếp ra nước ngoài.) Có lẽ đấy là khả năng may mắn nhất và tôi rất mong là như vậy. Hy vọng nó đã không thất lạc – đáng tiếc đấy không phải là trường hợp ngoại lệ trong tình trạng bưu điện ở Ý.

Nếu không, chắc chắn tôi đã vui lòng đón nhận cuốn sách đó (như tất cả những gì mang dấu hiệu của ông); và tôi sẽ luôn đọc, đọc lại và sống cùng những dòng thơ mới của ông (nếu được ông tin cậy) với tất cả khả năng và nhiệt tình. Chào ông và chúc ông mọi điều.

Rainer Maria Rilke