Chiến tranh Việt-Nam chấm dứt đã gần nửa thế kỷ rồi.

Nhưng đối với những cựu chiến binh Việt-Nam Cộng-Hòa, thì kỷ niệm của những ngày gian khổ ấy không dễ gì có thể bị xóa nhòa trong ký ức của họ.

Mỗi trang hồi ký của những người tham chiến chính là những tiểu đoạn của bộ phim dài ghi lại toàn bộ những gì đã xảy ra trong cuộc chiến đẫm máu kéo dài hai mươi năm trên đất nước chúng ta.

Phi trường dân sự Pleiku – 1970s. Ảnh do tác giả cung cấp

(tiếp theo)

Thành gãi đầu,

– Trình Thái Sơn, em đã thử nhiều lần lắm rồi mà chưa bỏ được. Kỳ này gặp lại ông thầy, nghe ông thầy khuyên bảo, em sẽ cố gắng thêm! Chắc chắn em sẽ làm được!

Trong khi ngồi chờ giờ xuất phát, tôi hỏi thăm Thành về gia đình chú ấy.

– Thế nào? Cô vợ 16 tuổi người Blao của chú bây giờ ra sao?

Bất ngờ bị tôi nói trúng tim đen, Phan Thành trố mắt,

– Ít ai biết vợ em lấy em khi mới 16 tuổi. Làm sao Thái Sơn lại biết chuyện này?

– Năm 1968 ở Blao, trên cái giấy cho phép con gái vị thành niên lấy chồng của ông bố vợ chú có chữ ký của người làm chứng là Trung úy Vương Mộng Long! Bố vợ chú là bác Phát làm nghề hái trà ở Tân-Hóa. Vợ chú là bạn thân của cô Sen, con gái bác Tần!

Nghe tôi trả lời, Thành ngẩn người ra một phút rồi cầm tay tôi lắc lắc mấy cái,

– Vậy mà em không biết chuyện này! Phải công nhận rằng không có việc gì xảy ra ở Tiểu Ðoàn 11 mà qua được đôi mắt của Thái Sơn.

Một phút sau, Thành cúi mặt, rầu rầu,

– Tụi em đã có hai đứa con, một trai, một gái. Cháu lớn lên ba, cháu nhỏ mới thôi nôi. Ông cụ thân sinh của vợ em vừa qua đời năm ngoái.

Nghe Thành nói, tôi không khỏi ngậm ngùi nhớ tới ông bạn già làm nghề hái trà ở Tân-Hóa. Mỗi lần tôi đi qua trước cửa, ông đều niềm nở mời tôi vào nhà uống trà và nói chuyện thời sự cho vui. Ông già goá vợ, có ba cô con gái, không có con trai. Vợ của chú Thành là người con lớn nhất.

Trước giờ toán Viễn Thám 822 và trung đội của Tiểu Ðoàn 11 Biệt Ðộng Quân xuất phát, tôi cho lệnh Ðại Ðội 3/82 của Thiếu úy Hổ xuống núi, đóng quân trong vòng rào kẽm gai của Liên Ðoàn 23. Nếu tình hình biến chuyển không êm xuôi, quân tiền phương chạm địch nặng, thì tôi sẽ cùng Ðại Ðội 3/82 và chi đội chiến xa M41 lên tiếp cứu.

Tối đó tôi và Trung tá Nhu ngồi hút thuốc chờ tin bên hai cái máy vô tuyến trong hầm trú riêng của ông.

Khoảng chín giờ đêm có tiếng ì ầm của lựu đạn nổ từ hướng đồi 631. Hai phút sau, một hỏa châu cầm tay được phóng lên trời, đây là dấu hiệu của 822 báo đã chiếm xong mục tiêu.

Suốt đêm, Toán 822 đã tắt máy để tránh bị lộ, nhưng tôi yên chí rằng toán này không bị thiệt hại gì.

6 giờ sáng ngày 20 tháng 9 tất cả các đài vô tuyến của các đơn vị tham chiến đều lên máy. Một giờ sau thì trung đội của Tiểu đoàn 11 Biệt Ðộng Quân hoàn tất công tác trải quân phòng thủ Tiền đồn 631.

Chưa tới 8 giờ sáng ngày 20 tháng 9, Toán 822 về tới chân núi Chi Kara, tôi và Ðại Ðội 3/ 82 đang chờ ở đây.

Trưa 20 tháng 9 Trung tá Hoàng Thọ Nhu gọi máy cho tôi để thông báo rằng ông sẽ gửi cho Hạ sĩ Nguyễn Ba và hai anh Viễn Thám viên của Toán 822 mỗi người 5 nghìn đồng và một Bằng Tưởng Lục Cấp Trung Ðoàn.

Ngày hôm đó Trung Tâm Hành Quân của Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn II được tin báo rằng trong đêm 19 tháng 9 Tiền đồn 631 đã bị một đại đội địch tấn công, quân trú phòng đã anh dũng đẩy lui quân địch, địch phải rút lui và để lại…nhiều vũng máu.

Chiều hôm đó tôi xuống núi, ghé thăm Trung tá Nhu. Ông Nhu úp mở,

– Anh có lệnh trả chú lại cho ông Vấn. Hình như chú sắp nhận lệnh đi xa. Chắc đi khỏi đây rồi, chú sẽ nhớ Pleiku lắm nhỉ?

Nói xong câu này ông Nhu nhìn tôi, cười hóm hỉnh.

Tôi không rõ ông niên trưởng này có ý gì, nên uống hết ly trà, tôi đứng lên cáo từ.

Ðêm 20 tháng 9 năm 1974, khuya lắm rồi, mà tôi vẫn còn ngồi trên mỏm đá cao, bên sườn núi Chi Kara nhìn về Pleiku. Ðèn Pleiku rực sáng một vùng trời.

Tôi đã là cư dân của Pleiku một thời gian gần mười năm dài. Tôi đâu biết rằng hai ngày nữa tôi sẽ phải đem quân xa rời nơi ấy. Tôi cũng không ngờ, xa Pleiku lần này, Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân sẽ chẳng bao giờ quay trở lại…

Vợ chồng cựu Th/tá Vương Mộng Long và vợ chồng cựu Đ/tá Từ Vấn

o O o

Chiến trường

réo gọi…

Chiều 21 tháng 9 tôi được lệnh rút về Pleiku. Hai Tiểu Ðoàn 63 và 81 Biệt Ðộng Quân cũng vừa được triệu tập về đây một ngày trước đó.

Tối 21 tháng 9 Ðại tá Từ Vấn, Liên đoàn trưởng Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân gọi điện thoại báo cho tôi biết có lệnh cho liên đoàn chuẩn bị đi khai thông Liên Tỉnh Lộ 8 B để giải tỏa áp lực địch trên đoạn đường từ Ðức-Lập tới Gia-Nghĩa.

Chúng tôi có trọn ngày 22 tháng 9 để tái trang bị và tiếp tế, sáng 23 tháng 9 năm 1974 chúng tôi lên đường.

Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân đi trên những chiếc xe dẫn đầu của đoàn công voa.

Vì Quốc Lộ 14 bị Việt-Cộng quấy rối vùng Bắc Ðèo Tử Sĩ nên chúng tôi phải rẽ vào Liên Tỉnh Lộ 7 B rồi quẹo phải, đi qua Thuần-Mẫn, tiến tới Buôn Blech rồi nhập vào Quốc Lộ 14. Vì thế, chúng tôi tốn nhiều thời gian hơn là đi thẳng từ Phú-Nhơn.

Chiều ngày 23 tháng 9 năm 1974 chiếc xe cuối cùng của chúng tôi có mặt ở Ban Mê Thuột. Toàn thể quân nhân của liên đoàn và đoàn xe chuyên chở chúng tôi đều tập trung trong khuôn viên doanh trại của Liên Ðoàn 21 Biệt Ðộng Quân.

Sau khi sắp xếp nơi ăn ngủ cho anh em, tôi lên xe về nhà. Nhà tôi nằm trên đường Hàm Nghi, cách hậu cứ Liên Ðoàn 21 chừng một cây số.

Trời sắp tối xe của tôi mới ngừng trước cổng.

Vợ tôi ít khi đi ra ngoài, nên nàng không biết Liên Ðoàn 24 đã vào thành phố từ lúc ban trưa.

Từ tháng 4 tới nay, đã gần nửa năm, sau khi tham dự hai trận đánh ác liệt nhất năm 1974 của Vùng 2, tôi mới có dịp ghé thăm nhà.

Cũng như bao lần trước, mỗi khi tôi từ mặt trận trở về, vợ tôi đều vòng tay ôm tôi, mặt nàng úp vào ngực tôi, những ngón tay nàng liên tục nhịp nhịp nhè nhẹ sau lưng tôi, miệng nàng không ngừng thì thầm, “Mình ơi! Mình ơi!Mình ơi!”  

Ôm hôn vợ xong, tôi quay sang bồng đứa con gái nhỏ nhất. Bé Tiên Giao của tôi sinh ra đúng ngày Căn cứ 711 do Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân và Chi Ðoàn 3/19 trấn giữ đã bị Sư Ðoàn 320A của Cộng-Sản tấn công và tràn ngập.

Hôm đó tôi đã trải qua một trận đánh xáp lá cà. Vừa thoát ra khỏi vòng vây, tôi được Ðại tá Phạm Duy Tất, Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân/ Quân Khu 2 đang bay trên trời thông báo rằng:

“Ông già vợ của chú vừa báo cho ta hay, vợ chú vừa đẻ đứa con gái thứ ba!”

Tiếp đó là trận Pleime 33 ngày đêm dầm mưa, đội pháo.

Mãi tới giờ này, tôi mới có dịp ôm trong tay đứa con bé bỏng của tôi.

Vợ tôi ôm vai tôi, rồi đưa tay vỗ nhè nhẹ vào mông em bé,

– Bé Tiên Giao hay khóc giữa đêm, em phải lấy cái áo mayor của mình đắp cho con, con hết khóc.

Vợ tôi thường nghe các cụ nói rằng, khi em bé đi ngủ, thì lấy áo của bố nó đắp cho nó, nó sẽ ngủ yên.

Tin lời các cụ, nên vợ tôi vẫn làm như thế…

Võng đong đưa, sợ con trẻ giựt mình,

Em ủ cho con hơi ấm áo anh…

(Thơ Vương M Long)

Không biết có phải cái tình phụ tử vô hình đã báo cho con tôi biết rằng bố nó đang ôm nó hay không, mà con bé cứ quơ quơ hai bàn tay tí hon, mũm mĩm của nó sờ sờ, vuốt vuốt, mặt bố nó.

Ðôi mắt con bé tròn xoe, mở lớn, miệng nó cứ, “bi bô, bi bô”, ra chiều đang vui thích lắm.

Hai đứa chị nó, một đứa ba tuổi, một đứa lên hai, cũng cố lấn vào ôm chân bố, chờ bố chúng nó cúi xuống vỗ về…

Tính nhẩm lại, tôi được gần vợ, gần con chỉ vài giờ đồng hồ, vì chưa tới 4 giờ sáng hôm sau tôi đã phải thức dậy, thay quần áo rồi vào trại kiểm quân, chuẩn bị lên đường.

Tôi lên xe, các con tôi còn say ngủ. Sau lưng tôi, chỉ có đôi mắt của người vợ trẻ dõi trông theo…

Ðời chiến binh, hạnh phúc gia đình của chúng tôi được tính từng ngày, từng giờ, từng phút, từng giây…

Ðêm hôm đó, trên trời Ban Mê Thuột, sương mù đã che khuất mảnh trăng non.

Ðoàn quân xa đi ngang qua thị xã,

Áo trận hoa rừng phủ đầy đất đỏ,

Ta ghé thăm Em và Bé mới ra đời.

Em cười, giọt nước mắt trên môi lăn vội.

Ta chỉ biết nói lời xin lỗi!

Ðã để cho Em một mình đi biển mồ côi…

Ta ôm con vào lòng, bé bỏng con tôi!

Ta chỉ bên Em, bên con, vài giờ ngắn ngủi.

Chiến trường sục sôi, chiến trường réo gọi…

Ðoàn quân xa lại vội vã lên đường,

Ðể lại Bé, để lại Em và thành phố sau lưng…

Tuổi trẻ, một thời để yêu

Tuổi trẻ, một thời để chết

Mùa Xuân ra đi biền biệt…

Ngày xanh, tuổi trẻ của ta…

Ta đã cho quê hương tất cả!

(Thơ Vương M Long)

8 giờ sáng ngày 24 tháng 9 năm 1974, đoàn công voa chuyển quân khởi hành, dẫn đường là hai chiếc xe V100 của Tiểu Khu Darlac (Darlac là tên trước 1975, sau 1975 là Dak Lak) kế đó là chiếc Jeep của tôi.

Thời gian này gia đình binh sĩ của Liên Ðoàn 24 còn ở Pleiku, nên hai bên đường chúng tôi đi qua, không có ai vẫy tay chào tạm biệt.

oOo

Vào vùng…

Trưa 24 tháng 9 đoàn xe chuyển quân tạm dừng trước cổng Chi Khu Ðức- Lập vài chục phút đồng hồ để các sĩ quan chỉ huy Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân vào quận đường nhận lệnh hành quân từ ông Ðại tá Phạm Văn Nghìn, Tỉnh trưởng, kiêm Tiểu khu trưởng Tiểu Khu Quảng-Ðức.

Trong thời gian chúng tôi họp ở hội trường của Quận Lỵ Ðức-Lập thì anh em binh sĩ tản vào các quán xá hai bên đường nghỉ mệt.

“Tổng thống ra lệnh, trong vòng hai tuần lễ, chúng ta phải khai thông Liên Tỉnh Lộ 8B để tiếp tế cho Quảng-Ðức và Phước -Long. Tôi cho Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân thời gian ba ngày để chuẩn bị, sau đó phải hoàn tất công tác này trong mười ngày!”

Sau khi lớn tiếng kết thúc buổi họp hành quân, ông tỉnh trưởng vội vã cất bước ra đi, mà chẳng thèm bắt tay giã từ ai.

Ngay sau đó, Ðại tá Từ Vấn đứng dậy giơ hai tay lên trời,

– Ông liên đoàn phó và ba ông tiểu đoàn trưởng ngồi lại đây bàn chuyện, các sĩ quan khác giải tán.

Hai phút sau khi ông Ðại tá Nghìn khuất dạng, trong hội trường chỉ còn lại năm sĩ quan của Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân là Ðại tá Từ Vấn, Liên đoàn trưởng, Trung tá Hoàng Kim Thanh, Liên đoàn phó, Thiếu tá Trần Ðình Ðàng, Tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 63 Biệt Ðộng Quân, Thiếu tá Hoàng Ðình Mẫn, Tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân, và tôi, Thiếu tá Vương Mộng Long, Tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân.

Chúng tôi chưa kịp ngồi xuống ghế thì Ðại tá Vấn đã lớn tiếng phân công,

– Kỳ này Tiểu Ðoàn 63 sẽ đảm nhận vai trò nỗ lực chính, dồn sức bứng các chốt chặn hướng Tây tỉnh lộ; Tiểu Ðoàn 81 có nhiệm vụ thám sát mặt lộ, rà mìn và đặt các trạm an ninh; Tiểu Ðoàn 82 vừa đánh Pleime xong, có nhiều tân binh mới được bổ sung, chưa quen chiến trận, sẽ đi sau bộ chỉ huy liên đoàn và là thành phần trừ bị.

Lệnh hành quân sẽ được đánh máy và gửi cho các đơn vị ngay chiều nay.

Sau đây, tôi nhờ trung tá liên đoàn phó trông coi liên đoàn giùm tôi, tôi có việc phải bay về Sài-Gòn, ba ngày nữa tôi sẽ ra chỉ huy. Thôi! Giải tán!

Sau đó bộ chỉ huy liên đoàn và hai tiểu đoàn bạn xuống xe, tạm trú trong vòng đai Quận Ðức-Lập.

Riêng Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân, vì là thành phần trừ bị, nên tiếp tục hành trình, để chiếm lĩnh đầu cầu, đồng thời cũng là tuyến xuất phát.

Ðiểm tới của đơn vị tôi sẽ là Căn cứ Hỏa lực Ðạo-Trung

Tới ngã ba Dak Son tôi dừng xe để hỏi thăm tin tức của đơn vị giữ đường.

Ông chỉ huy đơn vị khai lộ đang nằm trên cái võng tòn ten dưới bóng cây, nghe biết tôi đang tìm ông ta thì ông ta vội vã chạy ra đường,

– Chào niên trưởng, niên trưởng có khỏe không?

Thì ra đơn vị giữ đường ngày hôm đó là Tiểu Ðoàn 3/53 Bộ Binh của Thiếu tá Cao Mạnh Nhẫn, Nhẫn là Võ-Bị Khóa 21, đàn em của tôi.

– Ðường từ đây vào Ðạo-Trung có yên không chú? Tôi hỏi Nhẫn.

– Bảo đảm trăm phần trăm! Em giữ đường! Niên trưởng yên chí!  Thiếu tá Nhẫn nhìn tôi, rồi vừa cười vừa nói.

Trong trận Pleime 33 ngày đêm hồi tháng 7 và 8 vừa qua, đơn vị của chú Nhẫn là một trong hai tiểu đoàn của Trung Ðoàn 53 Bộ Binh vào giải vây cho tôi.

Tiểu Ðoàn 1/53 bị thiệt hại nặng, Tiểu đoàn trưởng là Ðại úy Nguyễn Dương Lâm, Khóa 19 Võ-Bị tử trận.

Tiểu Ðoàn 3/53 của Thiếu tá Cao Mạnh Nhẫn cũng phải bỏ chạy cùng với Bộ Chỉ Huy Nhẹ của Trung Ðoàn 53 Bộ Binh do Trung tá Trần Nguyên Khoa, Khóa 18 Võ-Bị chỉ huy.

Ngồi chơi với chú Nhẫn vài phút, tôi cho lệnh tiếp tục.

Còn cách Căn cứ Ðạo-Trung gần một cây số tôi cho xe ngừng lại, mọi người xuống đi bộ; đoàn xe trống trở đầu, quay về Ðức-Lập,

Căn cứ Hỏa lực Ðạo-Trung nằm trên một ngọn đồi trọc, ngay một khúc quanh của Liên Tỉnh Lộ 8 B.

Hiện thời căn cứ này có 4 khẩu 105 ly và do một tiểu đoàn Ðịa Phương Quân giữ an ninh. Vị tiểu đoàn trưởng Ðịa Phương Quân này là Thiếu tá Bùi Ngọc Long chuyển ngành từ Lực Lượng Ðặc Biệt. Tôi chỉ nhớ mang máng rằng ông thiếu tá này tốt nghiệp Khóa 5 hay Khóa 6 Thủ-Ðức.

Thiếu tá Bùi Ngọc Long cũng là dân Bắc Di Cư, lớn hơn tôi cả chục tuổi. Ông khuyên tôi nên cẩn thận khi di chuyển hay đứng trên các mô đất cao, vì ở đây ngày nào cũng bị địch bắn tỉa.

Ðịch ở cách ta chỉ một con suối và một cái thung lũng cạn. Bên kia thung lũng trên mặt đường xe be, sát bìa rừng còn vài cái xác của chiến sĩ bộ binh bị bỏ lại, trong đó có một chuẩn úy.

(còn tiếp)