Các nhà lãnh đạo Trung Quốc hiện nay thường được các chuyên gia và học giả phương Tây khen là những nhân vật có đầu óc chiến lược, bất cứ chính sách hay dự án nào họ đem ra thi hành cũng đều được phối hợp hết sức cẩn thận và luôn nhắm tới mục đích về lâu về dài. “Nhất đới, nhất lộ” của họ là một trong những dự án quan trọng và nếu thành công có thể đưa Trung Quốc vượt qua Hoa Kỳ để trở thành cường quốc kinh tế số 1 thế giới.
Tuy nhiên, theo ý kiến của nhà nghiên cứu chiến lược quốc tế Jonathan E. Hillman, dự án “Nhất đới, nhất lộ”, một viễn kiến về chính sách đối ngoại quan trọng của nhà lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình, thực ra ngay từ lúc đầu đã không được xác định một cách rõ ràng và nay thì quản lý rất yếu kém, phạm rất nhiều sai lầm. Trong khi Trung Quốc vẫn đang tiếp tục đẩy mạnh công việc xây dựng hạ tầng ở khắp nơi, rất có thể họ đang bước vào chiếc bẫy xập do chính họ giăng ra.
Dự án “Nhất đới, nhất lộ” được khởi xướng vào năm 2013 và là một chiến lược phát triển hạ tầng toàn cầu mà Bắc Kinh gọi đó là “một nỗ lực nhằm tăng cường sự kết nối khu vực và chào đón một tương lai tươi đẹp hơn.” Nhưng ai cũng biết đây là kế hoạch xây dựng một mạng lưới thương mại toàn cầu với Trung Quốc là trung tâm.
Năm 2018, nhà ngoại giao hàng đầu của Trung Quốc là Vương Nghị còn nói nhũn rằng Nhất đới, Nhất lộ “không phải là một Kế hoạch Marshall mà cũng không phải là một khái niệm địa chiến lược.” Trên thực tế, dự án này mang nhiều tham vọng hơn thế nữa. Kế hoạch Marshall là chương trình tái thiết trị giá $130 tỷ của Hoa Kỳ để xây dựng lại khu vực Tây Âu sau Ðệ nhị Thế chiến. Theo Viện nghiên cứu Hợp doanh Hoa Kỳ (AEI), kể từ khi Nhất đới, Nhất lộ được khởi xướng vào năm 2013, Trung Quốc đã ký được các hợp đồng xây dựng trị giá tổng cộng lên đến $460 tỷ xuyên qua hơn 140 quốc gia. Dự án này nay đã vươn tới các khu vực châu Phi, châu Mỹ Latinh, không gian ảo và thậm chí luôn cả ngoài không gian. Và trong khi bắt tay khởi sự các công trình xây dựng từ hết quốc gia này đến quốc gia khác, chính quyền Trung Quốc mới hiểu ra một lẽ rằng công việc phát triển kinh tế khó khăn hơn nhiều so với công việc tái thiết.
Một thí dụ điển hình nhất, rất có thể các giới chức Trung Quốc rồi đây sẽ phải hối hận khi họ lấy Pakistan là thí điểm chính của Nhất đới, Nhất lộ, với khoảng 40 dự án, trị giá được ước tính là $25 tỷ, hiện đang được tiến hành, mà Bắc Kinh tin rằng họ có thể thành công trong việc chuyển đổi quốc gia này sau khi Washington đã vấp phải nhiều khó khăn và thất bại trong nhiều thập niên qua. Tuy nhiên, Bắc Kinh cũng đừng vội tự tin quá sớm.
Vào những năm 1950, nhiều nhà kinh tế phương Tây đã đến Pakistan và ra sức giúp đỡ quốc gia vừa mới độc lập này lập ra một kế hoạch phát triển lâu dài. Và trong khi các khoản tiền viện trợ đổ vào đã không được phối hợp chặt chẽ thì các giới chức Pakistan lại còn chống lại việc đưa ra những ưu tiên cho việc phát triển kinh tế cũng như tạo khó khăn cho công cuộc cải tổ.
Dự định ban đầu đáng lẽ ra chỉ kéo dài 18 tháng, sứ mệnh của đoàn cố vấn nước ngoài được khởi sự cách đây hơn nửa thế kỷ về cơ bản đến nay vẫn chưa kết thúc. Cuối cùng, Ngân hàng Thế giới cũng phải nhảy vào, và trong nhiều năm qua, Hoa Kỳ đã cung cấp cho Pakistan hơn $80 tỷ tiền viện trợ. Năm ngoái, Quỹ Tiền tệ Quốc tế đã phải bảo lãnh cho Pakistan khất nợ lần thứ 22. Nên nhớ, số tiền $80 tỷ viện trợ trên, một phần lớn là tiền cho không và phần còn lại có phân lời rất thấp. Nếu lấy việc này suy ra thì số tiền nợ Trung Quốc $25 tỷ cho dự án xây dựng hạ tầng làm thế nào họ trả nổi.
Thế nên có người đã ví von, nếu nước láng giềng Afghanistan là mồ chôn của các đế quốc thì Pakistan chính là cái hố đen (black hole) của các chương trình trợ giúp ngoại quốc. Một cái túi không đáy, bao nhiêu tiền đổ vào cũng không đầy.
Một trong những lý do vì sao các giới chức Trung Quốc lại đánh cá lớn lên Pakistan và nhiều thị trường rủi ro khác là vì chính sự vươn lên của kinh tế Trung Quốc, nói cho cùng, được tiếp sức bởi họ chi tiêu rộng cho việc xây dựng hạ tầng. Tất cả các giới chức lãnh đạo tối ưu của họ đều được thăng quan tiến chức trong một hệ thống chính trị được chấm điểm dựa trên sự tăng trưởng tổng sản lượng nội địa (GDP) mà họ biết được một cách để tăng trưởng là thúc đẩy việc xây dựng cơ sở hạ tầng. Sau khi vượt qua cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, trong đó các quốc gia phương Tây gặp rất nhiều khó khăn, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã kết luận rằng chính sách của họ là siêu đẳng và sẽ thành công ở ngoại quốc.
Vì quá tin tưởng nhiệt thành vào nền kinh tế xây dựng, Trung Quốc đã hỗ trợ các dự án mà Hoa Kỳ từ lâu đã khôn ngoan tránh né. Năm 1973, Pakistan yêu cầu Hoa Kỳ giúp xây dựng một bến cảng tại Balochistan, khu vựng rộng lớn nhất nhưng cũng thưa dân nhất, và đề nghị cho phép hải quân Hoa Kỳ được vào đây đậu. Chính phủ của Tổng thống Richard Nixon lúc đó thấy dự án này quá phiêu lưu nên từ chối.
Nhiều thập niên sau, Trung Quốc chấp nhận điều mong ước của Pakistan và cho xây bến cảng, nhưng cho đến nay chỉ có rất ít tàu bè vào đậu và vẫn còn là nơi quá cách xa với những khu vực đô thị trong đất liền. Trong khi đó, hoạt động của Trung Quốc đã khiến Ấn Ðộ tức giận và từ chối cho phép Trung Quốc xây đoạn Nhất đới, Nhất lộ xuyên qua vùng đất phía bắc mà cả Pakistan và Ấn Ðộ đều nhận là lãnh thổ của họ.
Một dự án có tầm vóc lớn như Nhất đới, Nhất lộ lại thiếu minh bạch và trách nhiệm. Chính quyền Trung Quốc thường giữ bí mật chi tiết về những khoản nợ. Ðiều này cho phép Bắc Kinh kết bạn với chính quyền những quốc gia khác dễ dàng nhưng đồng thời nó cũng đưa đến việc ký kết những dự án thiếu thực dụng. Thêm nữa là các công ty xây dựng Trung Quốc cần việc làm và họ không ngần ngại đút lót với các giới chức tham nhũng địa phương để cho họ được khởi công càng sớm càng tốt, bất kể những công trình này có khả năng thương mại hay giá trị chiến lược hay không.
Trong khi đó, nhiều chuyên gia đã lên tiếng cảnh báo rằng Bắc Kinh đang sử dụng chính sách ngoại giao “bẫy nợ,” cho vay tưới hột sen rồi sau đó chiếm lấy những tài sản chiến lược khi con nợ không trả được. Họ chỉ ra thí dụ một bến cảng của Sri Lanka mà Trung Quốc tài trợ và xây dựng, và nay thì Trung Quốc mướn dài hạn trong vòng 99 năm – bằng khoảng thời gian nhà Thanh cho phép người Anh mướn Hồng Kông.
Nhưng bẫy nợ chỉ là một cáo buộc, nó còn cho thấy khả năng quản lý rất tồi của Bắc Kinh. Trong trường hợp Sri Lanka, cũng giống như nhiều điểm nóng khác dọc theo dự án Nhất đới, Nhất lộ, giới chức Trung Quốc cho vay một cách liều lĩnh những dự án mà những chủ nợ khác đã tránh né và nay thì họ đang lo tìm cách vớt vát những gì họ có thể lấy lại được.
Thật vậy, Trung Quốc đang sa vào một cái bẫy do chính họ lập ra. Theo các nhà nghiên cứu của Ðại học Oxford, nói chung trên toàn cầu, chi phí của những dự án hạ tầng lớn thường cao hơn, mất nhiều thời gian xây dựng và mang lại lợi ích ít hơn như dự tính. Ðể làm tăng thêm khả năng thất bại, Trung Quốc lại chọn những đối tác thuộc loại nguy hiểm: Hầu hết những quốc gia tham gia vào dự án Nhất đới, Nhất lộ có tín dụng nợ được xếp vào loại rác (junk) hoặc không được xếp hạng.
Chưa hết, trận đại dịch Covid-19 phơi bày thêm ra những khó khăn mà các giới chức Trung Quốc đang phải đối diện với tình hình thay đổi theo hướng xấu đi. Vào Tháng 6, Trung Quốc ước tính khoảng 20% những dự án của Nhất đới, Nhất lộ đang bị “ảnh hưởng nghiêm trọng” bởi đại dịch, trong khi từ 30% đến 40% những dự án khác đang bị “ảnh hưởng phần nào.” Bangladesh, Ai Cập và Tanzania mới đây đã huỷ bỏ hoặc hoãn lại vô thời hạn những dự án loại lớn.
Có thể nói Trung Quốc đang loay hoay trong một cuộc làm ăn đầy phiêu lưu và chưa biết làm gì để cắt giảm lỗ lã. Một cuộc khủng hoảng nợ nần tại một số quốc gia nghèo đang dần xuất hiện và hầu hết các dự án hạ tầng tại đó đang bị phá sản. Nhưng Nhất đới, Nhất lộ đã được đưa vào hiến pháp của đảng, nó không thể tháo gỡ xuống một sớm một chiều hay thậm chí bất kỳ ai dám lên tiếng nói đến thất bại. Nó là viễn kiến, là niềm hãnh diện của Tập Cận Bình, và cho đến khi ông ta rời khỏi quyền hành hay ra lệnh ngưng lại, các giới chức Trung Quốc sẽ phải ngoan ngoãn xếp hàng ngay ngắn tiếp tục tiến về phía trước cho dù họ có biết đó là cái bẫy hay không.
VH