1
Chúng tôi hạ cánh xuống sân bay Nội Bài lúc 6 giờ sáng. Huy đứng đợi ngay cửa phi trường. «Cái thằng! Sớm vậy mà ra làm gì!» Trời xám. Mưa lất phất. Đường vắng. Ngang cầu Nhật Tân, tôi hỏi : «Phải chỗ này trồng hoa đào không?» Em gật: «Hoa đào và thịt chó!»
Từ Nội Bài về khách sạn mất 45 phút nếu không kẹt xe. Càng vào gần trung tâm Hà Nội, đường sá càng thu hẹp lại, ồn ào hơn. Xe hai bánh lèn nhau sát sạt. Áo mưa dơi phập phồng và mũ bảo hiểm đủ màu dần dà bị màu của cờ đỏ sao vàng và cờ búa liềm treo rợp khắp nơi lấn át.
Chúng tôi tìm tiệm phở. Tôi gọi phở gà trứng non. Chủ quán ái ngại: «Muốn trứng non, phải ra sớm, tầm 6 giờ, 6 rưỡi í. Thôi thế bác dùng phở lẫn nhé?» Tôi bối rối nhìn Huy: «Lẫn là con gì? Chị chỉ biết phở bò và phở gà!» Em cười ha ha: «Chị chưa tỉnh ngủ hả? Phở lẫn là phở thập cẩm đùi, lườn, lòng, mề đó mà!»

Ăn sáng xong, chúng tôi ra hồ Hoàn Kiếm ngồi cà phê. Đương mùa cốm, em Khanh, vợ Huy chạy theo gánh hàng rong, mua gói xôi cốm gói lá xanh, buộc bằng cọng lúa. Tôi đưa cháu Khuê, bảo mở ra cùng ăn. Cháu Bá nhón lấy cọng lúa thắt thành cái vòng đeo lên cổ chơi. Những chiếc lồng đèn giấy kính xanh đỏ treo cao cao nhắc nhớ trung thu vẫn còn đâu đây.
Bữa trưa, hai em mời chúng tôi đi ăn chả cá Thăng Long. Thật ra, ở Pháp, thỉnh thoảng tôi có dùng cá nhồng hay cá mặt quỷ để làm món này vì thịt chúng săn chắc, thay thế cá lăng ngon lành. Điều đặc biệt ở đây mà ở Pháp không thể có được là bao tử cá. Vừa ăn, chúng tôi vừa nhắc nhau kỷ niệm ấu thời, mỗi lần mẹ mua cá lóc về, mình khứa khoanh kho tộ, đầu đuôi nấu canh chua, cái bao tử làm sạch xong nhồi tí thịt băm trộn ruột cá, hai chị em phải oảnh (oẳn) tù tì.
Bữa tối, chúng tôi ra đường dưới cơn mưa tầm tã. Chạy lum khum. Vào phố cổ. Đi ngang không biết bao nhiêu hàng quán khiến tôi cứ phải dừng lại đọc và muốn hiểu như: «Gà lễ cánh tiên», «Bún Cù Kỳ», «Kem ốc quế», «Phở bát đá»… Anh nhắc: «Coi chừng xe!» vì lề đường bị hàng quán và xe hai bánh chiếm hết chỗ, người đi bộ phải chia lòng đường với xe cộ tứ bề. Còi bóp liên thanh inh ỏi. Tìm 36 phố phường của Hàng Than, Hàng Mành, Hàng Vôi, Hàng Bún … tôi thấy cờ bay trăm ngọn cờ bay (Ta Thấy Gì Đêm Nay – Trịnh Công Sơn) và những bảng hiệu đọc dở khóc dở cười như vầy: «Ở đây có bán đồ ăn và bà chủ. Ship nhanh như người yêu cũ trở mặt.»

Cửa Nam-Hàng Bông, đèn thắp sáng trưng, cờ đỏ rợp trời, đám đông nam thanh nữ tú náo nhiệt, hàng quán chạy dài dọc hai bên đường rầy xe lửa. Em Khanh nói: «Đây là phố cà phê đường tàu. Chút nữa tàu lửa chạy ngang qua, những người ngồi quán vì muốn biết thót tim là gì kia sẽ đồng loạt vẫy tay chào hoặc quay phim, chụp hình. Có khi họ ngồi sát đường rầy quá, tàu lướt nhanh, gió hất tung bàn ghế, đổ tháo tùm lum.»
Vào quán ăn vỉa hè, chúng tôi gọi một lèo ốc mít hấp lá chanh, ngao hấp sả, sò huyết xào tỏi me, cơm rang dưa bò, gà tần, bia Hà Nội, rượu thuốc… Cơm xong, lại đón Grab ra nhà hát lớn, tìm kem Tràng Tiền, tiếp tục kem xôi, kem cốm… Khanh đưa chúng tôi hộp men tiêu hóa, dặn uống để chấn binh chứ ăn uống kiểu này, toa-lét sáng đèn cả đêm như chơi.

2
Chia tay gia đình Huy, chúng tôi cùng 13 người bạn đồng nghiệp Pháp lên đường đi Ninh Bình. Không bao lâu sau khi chúng tôi đi, Huy gửi hình đường phố Hà Nội ngập nước vì mưa lớn.
Ngồi xe hơn hai tiếng thì đến Hoa Lư, cố đô nhà Đinh và tiền Lê. Vừa xuống xe, chúng tôi lập tức bị nhiều phụ nữ địa phương bao vây, nài nỉ mua bưởi bòng, bánh kẹo v.v. Một bà cụ níu tay tôi ca cẩm: «Bà kết cỏ ngậm vành, bà xin cô đấy, ở đây không kiếm ra việc làm…» Giọng bà xen lẫn tiếng loa phường: «Bà con không được mua bán, kèo nài khách du lịch!» Ở cổng vào, một bà cụ khác đội nón lá, xắn quần ngồi «chờ thời», thấy đoàn khách đông người tiến vào, bà lật đật vớ lấy cọng lau, leo lên lưng trâu để tạo cảnh, xin tiền.
Thấy Cathy đi từ toa-lét ra, tôi hỏi: «Sạch không?» «Phải trả tiền, mà không dùng được!» «Sao vậy?» «Bồn cầu ngồi xổm, tui không quen!»
Tôi lơ đãng trong lúc Tự, người hướng dẫn đoàn, kể chuyện vua Đinh Bộ Lĩnh. Những cái tên Đinh Liễn, Lê Đại Hành, Dương Vân Nga bay lơ lửng như khói hương. Tượng thờ chạm khắc gỗ, sơn son thếp vàng bên trong tương phản với long sàng đá xám mới tinh bên ngoài, được ghi là «Bảo vật quốc gia». Lời giới thiệu đền thờ được xây từ thế kỷ thứ 17 khiến chúng tôi đặt nhiều nghi vấn. Đâu cố, đâu tân? Đâu thật, đâu giả?

Sau bữa cơm trưa có thịt dê nướng, chúng tôi đạp xe đi dạo. Theo suốt chúng tôi, một anh chàng lái xe gắn máy liên tục đón đường để chụp hình. Cuối buổi dạo chơi kéo dài khoảng 30 phút anh ta chìa mấy tập ảnh được rửa thần tốc, mời mua. Thời buổi ai cũng có smartphone này mà anh ta vẫn bán được khá nhiều vì khi đạp xe đường ruộng, không ai rảnh tay để «tự sướng». Hỏi thăm nhau, chúng tôi vỡ lẽ, mỗi người đã mua với giá khác nhau!
Buổi chiều, rời chùa Bích Động ba gian Thượng-Trung-Hạ xuống núi, Tự dẫn chúng tôi ra bến tàu để du ngoạn sông Ngô Đồng, thăm Tam Cốc. Trong lúc Tự mua vé, chúng tôi mặc áo phao. Quang cảnh bến sông hỗn loạn. Những người chèo ghe đôi co, tranh giành khách. Người điều khiển cầm quyển sổ phân công trên tay quát tháo, chỉ trỏ, họ nghe theo nhưng vẫn lời qua tiếng lại ỏm tỏi.
Chở hai vợ chồng tôi là một người đàn ông trung niên, tên Hùng. Ngồi đuôi thuyền, giạng chân đạp mái chèo, ông kể: «Dịch vụ đưa đò này do địa phương quản lý, mỗi một chuyến, họ trả 200 nghìn đồng. Có hết thảy 1,400 lượt, tới phiên ai thì người đó chèo, nhưng phải 5 đến 7 ngày mới đến lượt vì khách không nhiều. Chỉ từ tháng Giêng đến tháng Năm, khi lúa chín vàng thì mới có khách chứ mùa nước to như thế này, ế lắm. Đa phần là khách nước ngoài vì họ thích phong cảnh tự nhiên chứ không như ở Tràng An, non nước, đền chùa do con người xây dựng, chỉ có bà con mình thích đến để lễ bái.»

Long sàng – Bảo vật quốc gia
Vào đến cửa hang Cả, ông Hùng kể tiếp: «Tháng Giêng cấy lúa vào tận chân núi, tháng Năm gặt. Cứ cấy theo hình 12 con giáp, ví dụ năm nay năm Tỵ thì cấy hình con rắn, thu hoạch rồi thì trồng hoa súng dọc hai bên mạn núi cho đẹp để thu hút khách du lịch.»
Khoảng cách từ hang Hai đến hang Ba ngắn hơn khoảng cách từ hang Cả đến hang Hai khá nhiều. Khi thuyền quành trở ra, ông Hùng đổi giọng kể chuyện thành kể khổ. Ông rên người dân ở đây thiếu ăn vì chỉ cấy lúa và chèo ghe mà sống chứ không trồng được các loại hoa màu như những nơi khác. Ông lôi trong ngực áo ra một xấp tranh thêu, mời chúng tôi mua. Đoạn sông dài từ hang Hai về hang Cả, ông không ngưng ỉ ôi: «Mua giúp em với, cái này đẹp này, cái này rẻ này… » Trời sụp tối. 6 giờ chiều, không còn chút ánh sáng. Sườn núi cao dọc hai bên sông biến thành những bóng đen khổng lồ. Ông Hùng vẫn vừa chèo, vừa kèo nài chúng tôi mua tranh. Xong ông thẳng thừng: «Chút nữa hai bác nhớ bồi dưỡng!»
Về bến, tôi gửi ông một trăm ngàn đồng như Tự căn dặn. Ông không bằng lòng: «Bác cho xin thêm!» Tự can thiệp: «Như thế phải rồi. Các ghe khác cũng bo giá ấy.» Ông lớn tiếng: «Nhưng bác là người Việt!» Những người bạn Pháp thấy ông Hùng bỗng dưng sửng cồ với chúng tôi thì hỏi thăm, nghe chuyện, họ trố mắt: «Người Việt thì sao?»

3
Chàng trai tự giới thiệu tên Vic (nói tắt của Victory) có gương mặt chữ điền và phong cách của một người chỉ huy. Tôi hỏi: «Tên tiếng Việt của cậu là gì?» Hỏi xong liền tự trách mình lười suy nghĩ, Thắng chứ còn gì!
Thắng ra đón chúng tôi ở cảng quốc tế Hạ Long, đưa lên tàu con máy nổ xình xịch, hắc mùi dầu máy, thuyền trưởng đội nón cối, hút thuốc lào kêu toòng toọc, phà một hơi rõ sướng rồi bẻ bánh lái, chở đoàn ra tàu lớn, đậu giữa biển. Trước khi lên tàu, Tự dặn mọi người vứt bỏ chai nước nhựa hoặc giấu vào ba-lô vì họ cấm đem đồ nhựa ra biển, vấn đề bảo vệ môi trường.
Thắng bao sân, vừa điều khiển ê-kíp phục vụ từ quầy rượu, nhà bếp, bưng bê, vừa đích thân dẫn đoàn chèo kayak và đưa đoàn đi thăm các hang động.
Buổi sáng, Thắng dạy mọi người tập khí công. Buổi trưa, lại dạy làm gỏi cuốn. Tôi khen: «Này, cậu học tiếng Anh ở đâu mà nói khá thế? » Thắng cười: «Ở ngay trên tàu đây thôi ạ. Ngày xưa học ở trường chả ích lợi gì!» Đêm, Thắng mời chúng tôi thưởng thức rượu cocktail phở và chỉ cách câu mực.

(còn tiếp)







