Nó tên là con Thúi chứ không phải là con Thuý, như tên một cô bé học trò trong  truyện của Duyên Anh – hay nếu đồng hóa chữ  y (dài) thành i  (ngắn)  như ông nhà văn Nguyễn Ngu Í đề xướng thì càng sai nữa.

Con Thúi là con ở giữ bò nhà tôi, trong những năm tôi học tiểu học và cả khi lên trung học. Khi nó đến nhà tôi, một con bé đâu khoảng mười, mười một tuổi, nước da xanh mướt, tóc tai bùi nhùi nhớp nháp. Tôi đi học về thấy nó đứng dưới bếp nấu cơm cùng mẹ tôi.

Thấy con bé lạ, nên tôi hỏi mẹ:

– Con ni là con mô ri?

Mẹ đáp:

– Nó là con ở mới của nhà mình đó, tau mới thuê nó về giữ bò và phụ việc, nó ở dưới “đầm” ấy.

Tôi quay nhìn con bé, cười hỏi:

– Mi tên chi?

– Tên Thúi.

Tôi nghe lạ hỏi lại:

– Tên chi?

– Thúi.

Tôi buột miệng.

– Tên chi mà kỳ. Mới nghe đã…

Mẹ tôi cười, con Thúi cũng cười. Nó ngước mặt lên nhìn tôi, đôi mắt của nó đầy nước mắt và hàng lông mi sụp xuống. Con nầy bị “nheo” mắt rồi đây. Ở dưới Ðồng Rạ, dưới “đầm”, ai cũng bị bịnh này.

Nó nhỏ hơn tôi một, hai tuổi gì đó nên nó thường kêu tụi tôi – chị Khiêm là chị Hai, anh Giảng là anh Tư, và tôi là anh Năm.

Hàng ngày nó giữ bò, hốt phân, quơ củi. Khi về nhà thì rút rơm cho bò ăn, rồi vào bếp nấu cơm phụ mẹ tôi, rồi rửa chén… Nghĩa là nó làm không hở tay.

Ở nhà quê mà, hết mẹ tôi sai vặt, đến chị Hai tôi sai. Còn tôi, thì có con Thúi giúp việc rồi nên tôi không còn giữ bò nữa. Mẹ tôi mướn nó giữ bò thế tôi, để tôi có thời gian học bài, vì tôi đã học lên lớp nhất trường tiểu học rồi, tôi cần có thì giờ học để cuối năm hy vọng thi đậu vào trường công lập quận lỵ.

Con Thúi cũng siêng năng lắm, nó làm đủ thứ chuyện mà không bao giờ than vãn điều gì. Ngồi ăn cơm chung với gia đình tôi, nó thường ngồi gần nồi cơm, cho nên có bổn phận phải bới cơm cho mọi người. Nghĩa là thường phải bới luôn tay, khi thì mẹ tôi đưa chén bới, rồi tới cha tôi, đến tôi, đến chị Hai… Khi nào mọi người đang ăn còn cơm trong chén, nó mới “và” được mấy miếng cơm vào miệng. Nhiều lúc đang cơm, nó phải bỏ chén cơm xuống  để xới cơm nếu có người đưa chén. Cũng thật tội nghiệp. Nhưng lúc đó tôi còn quá nhỏ, không biết làm gì thêm về tình thương những người dưới mình, cứ tưởng chuyện đó cũng bình thường.

Xem thêm:   Vợ cũ

Tôi ít nói chuyện với con Thúi, chỉ thường hay sai nó lặt vặt.

“Thúi, mi ra xách nước đổ đầy trong lu cho tau tắm. Thúi, mi ra rút rơm cho bò ăn đi. Thúi, sao heo kêu quá vậy, mi vô bếp lấy nồi cám heo múc cho nó ăn đi…”. Nghĩa là đủ thứ chuyện, không cần biết nó đang làm gì, thấy cái gì cần là tôi sai.

Nói vậy nhưng tôi cũng thương nó, khi đi hái trộm ổi bên vườn ông Nhẫn hay vườn ông Bảy Bung, tôi cũng đem về cho nó một vài trái. Tôi quăng trái ổi vào góc bếp rồi nói trổng không, “cho mi nề”, thế là nó lượm trái ổi, rửa qua quít rồi nhai ăn ngon lành.

Nó ở nhà tôi, hàng năm mẹ tôi may cho nó đâu hai cặp đồ (áo quần), trả cho cha nó mấy ang gạo, thế thôi. Nhà nó nghèo lắm, cha nó mẹ nó cũng bị “nheo” như nó. Nhà nghèo quá làm không đủ ăn nên cha mẹ nó phải cho nó đi ở đợ

Con Thúi ở nhà tôi đâu được mấy năm, cũng quen chân quen tay lắm rồi, nên cha mẹ, anh chị em tôi cũng thương nó như người nhà. Mãi đến mấy năm sau, quê tôi mất an ninh phải tản cư xuống thị xã, nó mới trở về lại nhà nó. Lúc đó, gia đình tôi bỏ quê rồi, không còn ruộng, không còn bò, thì nuôi “con ở” làm chi nữa.

Thắm Nguyễn

oOo

Anh Giảng tôi ra học ngoài Ðà Nẵng. Cuối tuần ảnh đi xe đò về thăm nhà, chiếc xe Phi Long đang ngon trớn chạy trên quốc lộ 1, sắp đến Tam Kỳ, thì anh lơ xe vỗ vỗ vào thùng xe, nói lớn:

– Bị “giải phóng” đón đường rồi bà con ơi. Tụi tôi phải dừng xe lại thôi, để họ kiểm soát.

Lời thông báo của người lơ xe như một tiếng sét đánh ngang tai, ai cũng giật mình lo sợ. Tiếng mọi người trên xe ồn ào nổi lên, chết cha rồi, làm sao đây?

Giai đoạn này mấy ông “giải phóng” hay tìm những nơi vắng vẻ trên đường quốc lộ 1, đắp mô để ngăn chặn xe đò ngừng lại. Họ thu tiền và bắt giữ người, coi thử có sĩ quan quân đội, viên chức chính quyền hay cảnh sát quốc gia đi trên xe không. Nếu có thì họ bắt dẫn đi.

Xem thêm:   Chút ân tình cũ

Anh Giảng tôi là học trò, nhưng cũng rất run, vì đây là lần đầu tiên gặp cảnh “giải phóng” chận đường, nên ai cũng lo vãi ra quần.

“Giải phóng” lấy những khúc gỗ lớn bỏ lăn lóc trên đường để chặn xe đứng lại. Có lẽ cánh xe đò thường gặp cảnh này nên họ thấy cảnh “đắp mô” là họ báo động ngay. Ai có giấy tờ liên quan đến chính quyền đều len lén tìm cách cất giấu hay xé bỏ. Những anh lính mặc quân phục thì lo cuống cuồng, mặc bộ đồ “trây di” trên mình thì không còn chối cãi vào đâu được nữa, bị bắt dẫn đi là cái chắc.

Tất cả mọi người đều xuống xe, mặt ai cũng không còn chút máu. Trong một lùm tre rậm, có khoảng ba người đàn ông bận đồ đen, cầm súng AK giương ngang, trong thế tác chiến.

Một người ra dáng chỉ huy, bước lại gần đám dân:

– Mấy cô bác thông cảm, tụi tôi là lực lượng giải phóng miền Nam…

Quảng cáo cho Giải phóng miền Nam một hồi, rồi họ ra lệnh cho mọi người trình giấy tờ. Mọi người lấy căn cước cầm tay để  đưa cho “giải phóng” xét.

Ai giấy tờ  mà bị nghi ngờ thì họ bắt đứng qua một bên, nhất là đàn ông con trai. Những thanh niên dù mặc đồ dân sự  cũng bị họ xem xét kỹ  lưỡng, như tìm dưới nhượng chân, có bị chai sần không, nếu chai sần thì họ nghi là đi lính, vì theo họ “lý luận”, có mang “bót đờ sô” thường xuyên nên mới bị chai… Với mánh này, họ bắt khá nhiều thanh niên.

Anh Giảng là con trai mới lớn, còn đi học, thế mà cũng bị “đứng qua một bên”… Cuối cùng thì ảnh cũng bị “giải phóng” dẫn đi theo đám thanh niên bị nghi ngờ đó…

Ðiểm bị chận khoảng giữa Kế Xuyên với Tháp Chàm Chiên Ðàn. Ðám giải phóng chĩa súng dẫn đám thanh niên khoảng gần mười người, dẫn xuống miệt dưới Kỳ Anh, tức xóm Ðồng Rạ hay là còn gọi là “đầm”.

Ðám thanh niên ai cũng lo lắng, nhưng đành chịu trận. Anh Giảng tôi chắc cũng “té đái ra quần”. Qua những đoạn đường gập ghềnh khúc khuỷu, đến những trảng cát dài hun hút nung nóng, rồi dừng lại ở một xóm chài lơ thơ mấy ngôi nhà tranh xiêu vẹo.

Xem thêm:   Thư cho Thao

Sau khi đám bị bắt khai lý lịch trích ngang trên một tờ giấy manh, được cho ăn cơm nắm với muối vừng.

Ðến tối, họ nói, cần tập họp các anh lại để  «học tập”, sẽ có một “đồng chí lãnh đạo” đến “sinh hoạt”.

Buổi tối đến, tất cả được dẫn vào trong một căn nhà tranh rộng hơn, đám “tù nhân” ngồi dưới đất, để nghe lãnh đạo “thuyết trình”.

Những người giải phóng vai đeo súng, đội nón tai bèo, áo quần đen, ra «sinh hoạt» trước. Họ chửi Mỹ Ngụy đủ thứ, rồi sau đó họ giới thiệu một lãnh đạo sẽ ra “trao đổi” với các anh về đường lối chính sách của cách mạng.

Người lãnh đạo này là một phụ nữ, anh Giảng sửng sốt, đó chính là con Thúi từng “đi ở” trong nhà mình mấy năm trước.

Trong bóng đèn dầu lờ mờ, con Thúi bận đồ đen, đội nón tai bèo, mang xắc cốt, nói thao thao về “Tình hình thế giới và đường lối của Cách Mạng”. Anh Giảng giấu mặt vào chỗ tối nhất để con Thúi không nhận ra. Con Thúi “tràng giang đại hải” ít ra hai mươi phút. Bài nói của con Thúi y như trên loa phóng thanh. Xong, nó vỗ tay để mọi người vỗ theo rồi ung dung quay lưng.

Anh Giảng nhà tôi một phen hú vía, may mà con Thúi không phát giác ra anh, là “kẻ thù giai cấp” của nó, có lẽ nhờ anh đi học xa ít ở nhà, ít gặp, nên nó không biết, nếu nó nhận diện được ra thì số phận của anh Giảng sẽ ra sao cũng không ai đoán được.

Sáng hôm sau, đám bị bắt, một số được trả tự do vì họ không tham gia gì trong chính quyền hay quân đội, trong đó có anh Giảng vì anh đang là học sinh. Còn số bị nghi ngờ thì “giải phóng” giữ lại.

 oOo

Khi về nhà, anh Giảng kể lại câu chuyện trên, tôi không tin nổi, cả  nhà  cũng không ai tin nổi. Một con Thúi một chữ đập làm hai không có, mà chỉ có mấy năm theo cách mạng, nó đã lột xác nhanh như vậy sao?

Mấy năm sau, mẹ tôi nghe tin từ xóm Ðồng Rạ, từ mấy người quen cũ, máy bay trực thăng đã bắn con Thúi chết phơi thây trên trảng cát.

TYH