Nhà thơ Phan Xuân Sinh sinh ngày 02/01/1948 tại Nại Hiên Tây – Đà Nẵng. Học trung học ở trường Sao Mai, Đà Nẵng. Năm 1971 anh theo tiếng gọi của người trai thời chiến, vào trường Bộ Binh Thủ Đức. Ra trường, anh chọn làm sĩ quan Trinh Sát. Năm 1972, trong một cuộc hành quân lùng địch ở xã Cẩm Hải, quận Điện Bàn Quảng Nam, anh đụng trận, bàn chân phải của anh đạp phải mìn bẫy, đứt lìa.
Phan Xuân Sinh định cư Hoa Kỳ từ ngày 1/6/1990, lúc đầu ở Boston, sau này sống tại Houston, Texas.
Sinh thời, Phan Xuân Sinh trải qua nhiều giai đoạn khó khăn, khốc liệt. Mất mẹ lúc chưa đầy tuổi. Sống côi cút với cha. Đi vào chiến trận mất một bàn chân. Sau 1975 buôn bán chợ trời, lao mình vào cuộc mưu sinh. Vượt biên bị lường gạt. Sang Mỹ năm 1992 theo diện HO. Chị Thiên Nga, một phụ nữ hiền thục, là vợ anh. Họ có hai con trai. Con đầu chết vì tai nạn xe cộ cách đây mấy năm. Con thứ hai bị tâm thần hiện phải nằm viện. Với bao nhiêu thử thách lớn lao như thế, Phan Xuân Sinh vượt qua và có lúc thành công rực rỡ. Hồi ở Boston, anh mở tiệm rượu và tạp hóa, thành công tốt đẹp. Nhưng rồi anh bán tất cả, gom góp vốn liếng qua Dallas mua lại tiệm rượu và cây xăng của một người bạn. Lúc đầu thành công nhưng rồi tình hình địa phương thay đổi anh phải bán tống bán tháo dọn về Houston. Ở đây chị Nga mở tiệm nail nhưng rồi vào năm 2015 chị bị stroke phải đóng cửa tiệm. Từ đó cuộc đời xuống dốc và anh Phan Xuân Sinh qua đời vì bệnh tim ngày 28 tháng 2 vừa qua.
Cuộc đời Phan Xuân Sinh như chúng ta đã thấy là một vở kịch lớn. Qua bao nổi nênh của thế sự thăng trầm, anh là người chân tình, hào sảng, được anh em văn nghệ các nơi quý mến. Nhà anh ở Boston cũng như Dallas, Houston thường đông đúc bạn bè. Anh đã giúp đỡ nhiều anh em lúc gặp khó khăn. Vui nhất là hồi ở Boston. Bạn văn từ xa thường đến thăm anh và ra mắt sách, Phan Xuân Sinh gần như lo hết mọi chuyện, từ đưa đón, ăn ở cho đến tiệc tùng, tham quan. Các buổi ra mắt sách được tổ chức ngay trong nhà của anh hoặc ngoài hội quán cộng đồng. Nhà anh khá lớn, có cả một basement rộng. Anh em văn nghệ tụ họp ăn uống ở lại đây. Phụ tá đắc lực cho anh không ai khác hơn là chị Nga. Theo Trần Doãn Nho, anh chị không những tiếp đón khách, tổ chức sinh họat văn nghệ, còn đảm trách luôn cả việc đưa anh chị em đi các nơi: Canada, Washington DC, New Jersey, Philadelphia… Anh lái xe, chị lo ăn uống. Sinh hoạt văn hóa văn nghệ ở Boston một thời rộn rã là nhờ Phan Xuân Sinh. Sau này, anh chuyển công việc làm ăn về Texas; thiếu anh, Boston dường như lắng xuống. Ngược lại, có anh, Houston khởi sắc lên, nhất là khi công việc làm ăn của anh chị xuôi chèo mát mái. Nhà anh luôn rộng mở. Bạn bè văn nghệ khắp nơi, khi đến Houston, không có chỗ nghỉ chân hay cần họp mặt hàn huyên là cứ tới nhà Phan Xuân Sinh. Sống chan hòa như thế, song vận rủi cứ liên tiếp đổ xuống gia đình anh, sau này. Chị Nga bị đột quỵ, rồi lại tái đột quỵ, khiến công việc kinh doanh phải đình chỉ. Từ đó chị Nga sống dựa vào anh, dù bản thân anh, vốn là thương phế binh, cũng mang đủ thứ bệnh của người lớn tuổi. Đã thế, tháng 9/2020, đứa con trai đầu của anh, độc thân, bị tai nạn, qua đời. Đứa con trai còn lại, cũng độc thân và cũng bị bệnh tâm thần phải nằm viện. Bây giờ anh ra đi, còn lại chị Nga, một mình.
Phan Xuân Sinh là nhà thơ, qua Mỹ anh viết thêm truyện ngắn, tùy bút, chân dung văn học…
Tác phẩm in trên nhiều báo, tạp chí và diễn đàn như Văn, Văn học, Hợp lưu, Chủ Đề, Thế kỷ 21, Làng văn, Phố văn, Talawas, Da màu, Văn chương Việt, Văn Việt…
Các tác phẩm đã xuất bản:
– Chén Rượu Mời Người (tập thơ, Phan Xuân Sinh-Dư Mỹ/1996)
– Đứng Dưới Trời Đổ Nát (tập thơ/2000),
– Bơi Trên Dòng Nước Ngược (tạp bút/2004),
– Khi Tình Đang Ru Đời (thơ/2008),
– Sống Với Thời Quá Vãng (tạp bút/2009).
Sau đây mời các bạn đi vào cõi thơ Phan Xuân Sinh qua bài viết mới nhất của nhà văn Trần Doãn Nho, tựa đề Tưởng Nhớ Phan Xuân Sinh.
NGuyễn&BẠN HỮU
Tưởng nhớ Phan Xuân Sinh
Phan Xuân Sinh mê văn chương. Anh làm thơ đăng báo từ trước 1975 và tiếp tục làm thơ khi ra hải ngoại. Nhiều bài thơ của anh với hiện thực chan hòa trong lý sự, tạo thành một phong cách riêng, đã để lại ấn tượng mạnh trong lòng độc giả. Trước sau, anh xuất bản 3 tập thơ. Tôi đã có nhiều dịp “bình” thơ Phan Xuân Sinh, hoặc qua lời Tựa hoặc khi anh ra mắt tác phẩm. Nói chung, theo tôi, “Hơi thơ của Phan Xuân Sinh lạ, ngang tàng mà u uất, cuồng ngạo mà xót xa, sâu mà chân chất. Trong cuộc rượu, đọc lên nghe nghèn nghẹn, tưng tức và cảm giác như muối xát vào lòng.” (thi tập Đứng dưới trời đổ nát). Thơ anh không cần phân tích dài hơi. Anh làm thơ y như thể đang trò chuyện với bạn bè trong cuộc nhậu. Dù đề cập đến bản thân, người tình, kẻ địch hay đồng đội, ngôn ngữ Phan Xuân Sinh thẳng băng, hiếm khi vận dụng lối nói tu từ màu mè, bóng bẩy. Muốn hiểu thơ anh, rất giản dị, chỉ cần mang bài thơ ra đọc. Là đủ. Bàn thêm, đôi khi sẽ thấy thừa. Lại không khéo sẽ làm bay đi mất cái “chất” riêng vốn sẵn.
trên chiếu rượu. Bạn là tay cự phách
cỡ như ta cũng phải chầu rìa
nhào vô. Chỉ thấy mình lãnh đạn
thối lui…đâu được. Cứ lia chia
máu Quảng Nam ta, hơi thô lỗ
vài ba chén rượu, đã cãi càng
bận tâm chi mấy lời nói sảng
rượu vô, điên tiết cứ huênh hoang
(Chén rượu tạ lòng bạn hiền)
Phan Xuân Sinh thế đấy: chầu rìa, nhào vô, lia chia, cãi càng, nói sảng, điên tiết…
Thực ra, nếu lưu ý, qua thứ ngôn ngữ nghe rất “đời thường” đó, thơ anh ẩn chứa một nét khác: tính nghịch lý. Chẳng hạn, nghịch lý tiền tuyến/hậu phương:
ta vẫn nằm trên đồi gió thổi
chim hót ban ngày, pháo dội ban đêm
em cứ chạy theo từng mốt mới
còn ta, uống rượu để tìm quên
(Nghe chim hót trên đồi 55)
Chẳng hạn, nghịch lý quê hương/đảng:
trên quê hương tôi
lòng người đổ vỡ, tan hoang
khi những người thắng trận
(…)
thay vì xây dựng quê hương
lại xây dựng đảng
thay vì vá lại những vết thương
lại vạch thêm những vết nứt
những đứa bé đến trường
phải thông qua lý lịch
bài học đầu đời không cần đạo đức
phải tỏ tấm lòng
nhiệt thành cách mạng
những học vị vứt vào sọt rác
lao động là vinh quang
những thằng vô học đứng trên bục giảng
rêu rao lý thuyết điên cuồng
như vẹt
không nuôi được nhân dân
nhưng làm giàu bè đảng
quê hương tôi chìm trong uất nghẹn (Bom nổ giữa tim người)
Hay nghịch lý bộ đội/lính:
sau vài ly, ông nhìn tôi từ đầu tới chân
anh là ai? thấy quen quen như gần gũi
tôi trả lời ông, xin thưa, tôi là thằng “lính ngụy”
xưa kia… có lần tôi nhắm bắn trật ông
ông cười ha hả hèn chi thấy quen
mình là lính chuyên nghiệp,
mà “dở ẹt’ nghề xạ thủ
bữa nhậu nầy tràn ly vẫn chưa đủ
tôi với ông đều là thứ lính dân chơi
(Người lính già, bên kia)
Bài thơ này còn hàm chứa một nghịch lý khác: bắn trật/bắn trúng. “Bắn trật” ở đây nói lên một yếu tố rất nhân văn của người lính Phan Xuân Sinh: không muốn giết người. Vậy ai là kẻ “bắn trúng”. Dạ thưa, đây:
cuộc chiến qua, như một tấm tuồng đời
thấy chúng nó bắn đâu trúng đó
bắn tan xác nhân dân,
bắn tanh bành đất nước
vẫn chưa thỏa được lòng tham
Không những chỉ bắn trúng một cách chung chung, mà “bắn đâu trúng đó”. “Chúng nó” chẳng ai khác hơn đám quan chức nhà nước hiện nay, tạo nên một vấn nạn nhức nhối của đất nước gần như không tìm ra lối thoát. Rõ là Phan Xuân Sinh nhạy cảm với cái nghịch lý. Và tìm cách biến nó thành thơ.
Đọc bài thơ trên, không thể không nhớ đến “định nghĩa” về chiến tranh của nhà thơ Paul Valéry (Pháp): “Chiến tranh là cuộc tàn sát lẫn nhau giữa những người không quen biết nhau, để phục vụ cho những người quen biết nhau nhưng không tàn sát lẫn nhau” (La guerre est un massacre de gens qui ne se connaissent pas au profit de gens qui se connaissent bien mais ne se massacrent pas).
TDN – 3/2024