Nhà văn/nhà phê bình Bùi Vĩnh Phúc sinh vào mùa Xuân Quý Tỵ, 1953, tại Hà Nội. Lớn ở Saigon. Trung học theo ban Toán. Đại học, văn chương và xã hội. Dạy Việt văn và Pháp văn tại Nguyễn Bá Tòng, Saigon và Gia Định.

– Vượt biên cuối năm 1977. Sống ở Mỹ từ tháng 4, 1978.

– Học tại Cal State University, Long Beach và University of California, Irvine. Cao học Ngôn Ngữ Học: Cử nhân Văn chương Pháp. Ngôn Ngữ Học, và Xã hội học: Chứng chỉ dạy ESL của hệ thống đại học tiểu bang.

– Dạy Anh văn và Ngôn ngữ & Văn hóa Việt Nam tại đại học Long Beach và Golden West, California, từ 1985.

– Viết văn và làm thơ từ 1968. Từ 1985 đến nay, chuyên viết phê bình và lý luận văn học.

– Trong ban chủ biên cũng như đã cộng tác với một số tạp chí văn học tại Mỹ và trên thế giới, trong đó có Văn học Nghệ Thuật, Văn Học, Hợp Lưu, Thế Kỷ 21…

Đây là một cuốn sách viết về 9 khuôn mặt văn học miền Nam Việt Nam. 9 khuôn mặt đặc thù. 9 phong khí văn chương. 9 bờ cõi chữ nghĩa mà cái ánh sáng cùng khí hậu văn học đặc biệt của miền Nam nước Việt, với thổ ngơi, màu sắc và khí chất riêng của nó, đã hun đúc nên và làm toả ánh.

Lời vào sách ghi:

Miền Nam, nhưng không phải là chỉ là do người miền Nam, chỉ cất lên từ một chất giọng miền Nam. Mà nó là một chất giọng Việt Nam đặc biệt, của cả 3 miền Nam Trung Bắc hợp lại. Miền Nam, ở đây, chỉ là một không gian địa lý, một cõi bờ, một địa vực, của đất Việt. Những tiếng nói ấy gặp nhau trong một khung cảnh, một giai đoạn lịch sử đặc thù, làm nên cái chất giọng, cái “phong khí” chung của một dòng văn học, của một “điệu” văn chương. Rồi, sau thời điểm 1975, cái “điệu” văn chương ấy lại toả đi khắp chốn. Nó tiếp tục được cất tiếng trên những vùng thổ ngơi không phải là đất Việt. Nhưng nó làm “hồi cố” những âm vang xưa. Nó làm lấp lánh cái hồi quang của một trời đất cũ. Và nó cũng hoà quyện trong nó cái ánh sắc của những vùng không gian mới.

[…]

Tác giả chỉ hy vọng, qua 9 khuôn mặt và phong khí được trình bày, giới thiệu, phê bình và nhận định trong cuốn sách này, có thể làm ánh lên đâu đó cái đẹp, cái rực, cái mềm mại, cái cương ngạnh, cái bay lượn, và cái phong nhiêu, sinh động của cả một vùng trời đất, cỏ hoa, một vùng văn hoá.

Những khuôn mặt, phong khí văn chương được trình bày trong cuốn sách này, dù sao, và trong một góc cạnh nào đó, cũng có thể đại diện cho những ánh sắc khác nhau của vùng văn học được khảo sát. Đó là miền Nam Việt Nam. Khởi đi và được nuôi dưỡng trong 20 năm chiến tranh (1954 – 1975) trên đất đai, thổ ngơi nước Việt, rồi tiếp tục bừng nở, mang trong trái tim và lồng ngực mình tiếng đập và hơi thở của thời đại, cùng với mùi hương cuộc đời trên những hành trình lữ thứ, trong nội tâm hay ngoài Việt Nam, những nhà văn, nhà thơ Việt này đã tiếp tục làm lớn mạnh tiếng nói và tâm hồn dân tộc.

Xem thêm:   Nhìn lại con đường với Hà Thúc Sinh

Tôi mong cuốn sách này, dù sao, cũng có thể cho người đọc thấy được, ở những giác độ nào đó, cái khuôn mặt, cái phong cách và khí chất của những con người cầm bút được nhắc đến. Tôi mong, qua họ, người đọc có thể thấy hay cảm nhận được cái sức sống đẹp tươi và đầy màu sắc của một vùng trời đất hoa cỏ quê hương, nói riêng, và của cõi sống văn chương con người, nói chung.

Cái cõi sống ấy, người viết và người đọc, ở nơi nào và thời nào, tôi tin, cũng đều muốn hướng đến. Trong đó, tất cả – người viết và người đọc, cái viết và cái đọc, cái được viết và cái được đọc – đều hạnh phúc quây quần và ca hát hạnh ngộ cùng nhau.

(Trích Lời Vào Sách)

Trích đoạn một số phê bình/nhận định về các tác giả trong sách

Về Thanh Tâm Tuyền

Thanh Tâm Tuyền là khuôn mặt, là tiếng thơ độc đáo của nhóm Sáng Tạo. Ông là một biểu tượng thơ của miền Nam sau 1954. Một biểu tượng mở cõi. Tiếng nói ấy của thơ, nơi Thanh Tâm Tuyền, không giống với những tiếng nói trước đó hoặc cùng thời với ông. Thậm chí, sau ông. Ông lên tiếng về cuộc đời, về tự do, về tình yêu. Nhưng sự lên tiếng ấy mang trong nó một bản chất khác. Nó mới. Và nó làm ngạc nhiên, thích thú. Hoặc nó đem đến một hiệu ứng ngược lại: nó làm khó chịu, bực bội. Những thước phim đen trắng pha đầy chất tượng trưng – siêu thực trong thơ Thanh Tâm Tuyền vẫn chiếu nhấp nháy trong lòng ta. […]

Trên đường đi tìm một tự do hằng khao khát, Thanh Tâm Tuyền, như bất cứ ai chọn cuộc lên đường đầy thử thách để tìm một dải đất mới cho mình, đã có những lúc phẫn nộ. Có những phẫn nộ chính đáng, trong đó có những mầm hạt cho một hạnh phúc ước mơ sau này. Có những phẫn nộ xem ra vô lý, vô cớ, không dựa trên một lý do chính đáng nào cả, nếu ta không làm một cuộc nội soi vào tâm lý nhà thơ, không đi vào “thâm cung, mật thất” của tâm hồn ông. Nhưng thật ra thì phẫn nộ, phản kháng là yếu tính của con người nghệ sĩ, của kẻ sáng tạo.

Cần để ý đến những nỗ lực đổi mới thơ của Thanh Tâm Tuyền, kể từ khi ông viết những bài thơ tự do làm rối mắt, rối tim và rối trí nhiều người từ những năm cuối thập niên ’50. Thơ tự do của ông đã ghi một dấu ấn rõ nét trên khuôn mặt của thi ca miền Nam, nói riêng, và văn học nghệ thuật miền Nam Việt Nam, nói chung. Nó phản ảnh những ngày ông từ bỏ Apollon thanh thản, hài hoà, yên bình để chạm mặt Dionysos đầy biến động, hỗn loạn và cuồng nộ. Để, từ đó, “vượt qua” và “vượt lên”. Dấu ấn và ảnh hưởng ấy vẫn còn có thể được nhìn thấy cho đến hôm nay trên văn học cả nước, dĩ nhiên cùng với sự cộng hưởng từ nhiều nguồn ảnh hưởng khác.

Thơ tự do của Thanh Tâm Tuyền là một âm bản lạ lùng của/về thành phố & tình yêu, cùng với những biểu tượng nhiều mặt và đứt gẫy, mất liên hệ của chúng, phản ảnh tâm thức cùng lúc hoà đồng với mọi sự, mọi vật chung quanh, như cả ông cùng với những vật, những người, những sự đó đều được làm bằng cùng một chất liệu, đồng thời, nó cũng cho thấy, từ trong vô thức cho đến phong cách, diễn ngôn bên ngoài của ý thức, cái tinh thần “tôi là người là một người khác” nơi ông. Hình ảnh cái tôi bị xé rách từ chính nó trong thơ Thanh Tâm Tuyền làm người đọc, nếu không quen biết với một vài tác giả nổi bật, đặc biệt những tác giả liên hệ đến thuyết hiện sinh, cảm thấy ngỡ ngàng, quái dị và xa lạ.

Xem thêm:   Lư đã về lại Phá Tam Giang

Nhưng tập thơ Thơ ở đâu xa, viết trong giai đoạn tù ngục, khoảng 30 năm sau, lại cho thấy một dương bản nơi ý thức sáng chói của nhà thơ. Nó viết về đời sống cùng khổ nhưng đầy ý nghĩa của một người. Nó viết về thiên nhiên, dịu hiền, khổ hạnh, bình đạm và thậm chí thơ mộng của con người ấy. Nó như một thứ nhật ký về đời sống đày ải. Có khắc khoải, đớn đau, nhưng cương ngạnh, tha thiết.

Trong Thơ ở đâu xa, cái mới của Thanh Tâm Tuyền được phát lộ trong hình ảnh, đã đành; nhưng điều quan trọng, tạo nên một dấu ấn rõ nét trong thơ ông, ở thời kỳ này, là, ngoài một số bài thơ tự do theo lối cũ nhưng với một sắc thái mới, giản dị hơn, buốt sắc hơn, thơ mộng đằm thắm hơn, và cũng mới lạ hơn trong phần chữ nghĩa cũng như trong tiết nhịp và vần điệu, ngoài một vài bài thơ xuôi rất đẹp, thơ mộng và thiết tha đến nao lòng, ngoài một vài bài lục bát mà hình ảnh mới và đẹp như búp nõn, những bài còn lại là những bài thơ 8 chữ, 7 chữ, 6 chữ, 5 chữ, 4 chữ. Một số bài chỉ có 4 câu, như thơ tứ tuyệt đời Đường, đôi khi lại như thơ haiku của Basho hay Issa.

Trong những bài thơ mang phong khí cổ ấy, cái mới và cái làm nên Thanh Tâm Tuyền vẫn là những hình ảnh rất sáng tạo, rất sắc nét và rất riêng của ông, được đặt trên một cái nền u nhã và có vẻ cổ kính. Đó là một kết hợp rất nghệ thuật. Chúng là những hình, những ảnh, những âm, những chữ cương ngạnh, thiết tha, rực sáng, reo múa nơi hồn người.

Về Mai Thảo

Mai Thảo được biết đến, nhiều nhất, qua cách hành từ, tạo từ, diễn ý, và chấm câu. Nói chung, một cách nào đó, ông là người được xem là đã cách tân ngôn ngữ, trong văn chương miền Nam sau Tự Lực Văn Đoàn. Sự cách tân đó được người đọc nhìn thấy rõ nét trong chữ nghĩa của Mai Thảo. Đặc biệt trong nhịp hành văn.

Chữ nghĩa của Mai Thảo là một nét đặc thù riêng ở nơi ông. Có thể nó cầu kỳ ở một vài khía cạnh nào đó, nhưng cái cầu kỳ ấy đẹp. Nó đẹp, cũng như sự giản dị có cái đẹp của nó. Cái đẹp của văn chương Gustave Flaubert và cái đẹp của văn chương Alphonse Daudet là hai cái đẹp khác nhau. Một cái cầu kỳ, trau chuốt. Một cái đơn sơ, nhẹ nhàng. Cũng thế, cái đẹp của chữ nghĩa Hemingway và cái đẹp của chữ nghĩa Kahlil Gibran không đồng dạng. Một cái trơ, trần, ngắn gọn, và sắc. Một cái mượt mà, thanh cao, nhiều tính gợi ý, gợi hình. Nhưng mỗi cái đẹp ấy đều đã được sáng tạo với một sự khổ công nào đó. Và những ánh sáng phát ra từ chúng đều khiến cho chúng ta hạnh phúc để cảm nhận rằng đời sống đã trao tặng cho chúng ta nhiều điều. Và những người được đời sống dùng như sứ giả của sự trao tặng kia đều là những người đáng để cho chúng ta yêu mến. […]

Xem thêm:   Đọc Tâm Thanh, từ một góc riêng

Chữ, ở Mai Thảo, không lắm khi mọc lên như rừng, với những cây cành, lẻm nhọn. Mà chữ, nơi ông, thường ánh lên và sóng sánh như một biển đầy ánh sáng, đầy sắc màu. Mềm mại, gợn sóng, và vang âm. Những con âm rì rào, thao thiết. Trong chiều, trong đêm, hay khi về sáng.

Những bước chân âm trải sóng khắp lòng ta.

Về Vũ Khắc Khoan

Vũ Khắc Khoan là con người của “lộng ngôn”, của “thác ngôn”. Là con người của “tuý bút”. “Lộng”, như một trào lộng, ngoa ngoắt, tung tẩy. “Thác”, như một ký gửi, một hàm nghĩa. Và “tuý” (không phải “tuỳ”), như một say đắm, ngất ngư, phóng thả. Nhưng vẫn đầy chất suy tư. Nhà văn họ Vũ cũng là người của những “huyền truyện”, những truyện tưởng như cổ tích, dựa vào cổ tích, nhưng lại thấm đẫm chất suy tư của con người thời đại. Chúng ẩn giấu cái nhìn triết lý để nói về những chọn lựa chính trị, về cái thế đứng (nhiều khi khó khăn, chênh vênh) của con người, đặc biệt của người trí thức, người nghệ sĩ, trước thời cuộc, trước lịch sử. Con người đối mặt với cuộc hiện sinh mang nhiều nét phi lý của mình.

Con người trong truyện của Vũ Khắc Khoan cũng là con người mải miết thiết tha đi tìm cái đẹp, cho dù biết cái đẹp đó chỉ là ánh lửa của một ngọn đèn lập loè, lấp loá trong đêm. […]

Người ta có thể nói đến một “chất kịch” của Vũ Khắc Khoan. Cái chất ấy toát ra từ phong cách riêng của họ Vũ. Nó nằm trong suy nghĩ, thái độ, ngôn ngữ, lối nói, cái nhìn về cuộc đời. Của riêng ông. Ngôn ngữ như những đường gươm, những thế chém tuyệt kỹ và đầy ánh sắc.

Vũ Khắc Khoan là một kiếm sĩ của ngôn từ. Và người đọc nhớ mãi những đường gươm của ông.

BÙI VĨNH PHÚC

Tác phẩm đã xuất bản

Lý Luận và Phê Bình / hai mươi năm văn học Việt ngoài nước, 1975-1995 (1996)

Ở Một Nơi Nào (tuyển chọn, sửa chữa, và giới thiệu, 1995)

Các bài Luận và Tuần ký mầu (giáo trình Đại học, 1994)

Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam (giáo trình Đại học, 1992)

Quê Hương, Cầm-Tấu-Khúc Kỷ Niệm (khốc bút, 1982)

Những Cơn Mưa Trở Về (tùy bút, 1981, 1987)

– Tác phẩm mới nhất của Bùi Vĩnh Phúc

“9 Khuôn Mặt, 9 Phong Khí Văn Chương” – Văn Học Press xuất bản – nội dung viết về Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan, Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Hoàng, Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên.