Số lượng người từ các tỉnh thành tìm vào sinh sống ở Sài Gòn gần đây bất ngờ giảm sút cho thấy vùng đất này dường như không còn là “điểm đến lý tưởng” cho phần lớn người nhập cư. Có ý kiến cho rằng do Sài Gòn hiện đã quá đông người, đất đai quá chật chội. Thêm vào đó sự thay đổi của khoa học kỹ thuật kéo theo yêu cầu thay đổi công nghệ tại các nhà máy, xí nghiệp, nên chuyện “thu hút nhân công giá rẻ” không còn là yếu tố quan trọng. Vì vậy sức ép cuộc sống lên người nhập cư ngày càng lớn, từ thu nhập ra sao, ăn ở thế nào, con cái học hành ở đâu…Trước thực tế ấy, bản thân những người đang có ý định vào Sài Gòn kiếm ăn, lập nghiệp cũng phải cân nhắc nhiều trước khi ra quyết định. Tuy nhiên dù thế nào, Sài Gòn vẫn là “vùng đất hứa” của nhiều thế hệ người nhập cư cả nước.

Sài Gòn đất chật, người đông do người nhập cư kéo về    

Đất lành, chim đậu?

Sài Gòn vốn là một đô thị trẻ. Năm 1698, khi mới thành lập, Sài Gòn lúc ấy có diện tích 50 km2 với khoảng 10,000 dân. Năm 1863 (sau khi Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông), Sài Gòn mới có gần 20,000 dân, kể cả người Hoa, Pháp, Ấn Độ… Năm 1905 là 55,000 dân. Nhưng sau đó gia tăng nhanh để lên hơn 300,000 dân (năm 1929), rồi l.77 triệu (năm 1958), 2.54 triệu (năm 1960), 3.33 triệu (năm 1970), khoảng 4 triệu vào tháng 4/1975 (với diện tích 2,095 km2). Nên lưu ý rằng trước 1975, sự gia tăng dân số Sài Gòn chủ yếu do tác động của chiến tranh. Sau “tháng 4 đen”, sự gia tăng này càng mạnh mẽ do nơi đây được xem là trung tâm kinh tế lớn nhất nước. Tổng điều tra dân số tháng 5/1975 tới năm 1979 cho thấy, trung bình hàng năm có 38,000 người từ các tỉnh, thành khác di chuyển đến Sài Gòn. Thời kỳ 1979-1989, con số này là 30,000/người/năm. Thời kỳ 1994-1999 gần 90,000/người/năm. Năm 2020 gần 180,000. Riêng năm 2023 bất ngờ giảm xuống còn khoảng 65,000 người.

Sống tạm bợ trong những “khu ổ chuột”

Thống kê khác: Vào tháng 12/2002, dân số Sài Gòn gần 5.5 triệu người. Cuối năm 2004 là 6.11 triệu. Đến tháng 6/2023 gần 9.2 triệu. Còn hiện nay (10/2024), nếu tính luôn những người không đăng ký tạm trú và khách vãng lai thì dân số Sài Gòn gần 14 triệu người. Dự báo sau 10 năm nữa Sài Gòn có thể lên đến 16-17 triệu người nếu tình hình không có sự thay đổi lớn.

Xem thêm:   Chợ trời mùa Đông ở Berlin

Kết quả báo cáo Chỉ số Hiệu quả Quản trị và Hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam (PAPI) năm 2022 do Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc (UNDP) công bố, Sài Gòn cũng là địa phương dẫn đầu cả nước về sự hấp dẫn người nhập cư với 2 lý do chính là điều kiện học hành và dễ tìm việc làm với thu nhập tốt hơn. Sau Sài Gòn, 4 địa phương còn lại cũng hấp dẫn nhiều người nhập cư là Hà Nội, Đà Nẵng, Đồng Nai và Bình Dương.

Khăn gói vào Sài Gòn tìm “vùng đất hứa”

Biện pháp đối phó?

Theo công bố của Tổng cục Thống kê VN (năm 2020), xét về độ tuổi, với lý do học hành và kiếm việc làm nên phần lớn có độ tuổi từ 15-39, chiếm tỷ lệ 86% tổng số người nhập cư. Điều tra cũng cho thấy, đa số người nhập cư tìm về Sài Gòn bằng nhiều con đường khác nhau. Họ thuộc đủ mọi tầng lớp, sau đó tìm cách kiếm sống trên khắp hang cùng ngõ hẻm với đủ thứ nghề: bốc xếp, bảo vệ, tạp vụ, công nhân vệ sinh, shipper, thợ sửa xe, bán hàng rong, bán vé số… Những người có sẵn “vốn lớn” hoặc “sự quen biết” dễ xin vào các cơ quan, xí nghiệp hoặc thậm chí đứng ra tổ chức thành lập doanh nghiệp, công ty

Không riêng VN, phần lớn các quốc gia trên thế giới đều gặp tình trạng di dân trong quá trình công nghiệp hóa. Người dân có xu hướng kéo đến những nơi có sự tập trung doanh nghiệp cao, kết nối hạ tầng giao thông thuận lợi, nhiều trường học, bệnh viện…Vì vậy các nước thường giải quyết bằng cách xây dựng các địa phương vệ tinh chia thành nhiều cấp, để thực hiện giãn dân về các vùng vệ tinh này.

Xem thêm:   Vật phẩm đồi mồi tiền & tù

Chuyên gia Huỳnh Thanh Điền (Trường Đại học kinh tế) nhận xét: “Ở nước ta, quá trình công nghiệp hóa cũng thực hiện rải đều ở các địa phương. Có rất nhiều các tỉnh, thành đua nhau xây dựng bến cảng, sân bay, khu công nghiệp, nâng cấp giao thông nội bộ của tỉnh tuy nhiên lại ít chú trọng sự liên kết giữa các địa phương. Trong khi ấy, các doanh nghiệp vẫn quy tụ về các thành phố công nghiệp hóa sớm, làn người di dân cũng đổ xô về đó còn các địa phương khác, mặc dù đã quy hoạch một số khu công nghiệp nhưng vẫn luôn vắng vẻ. Nhìn chung, công nghiệp hóa theo kiểu quy hoạch dàn trải, thiếu liên kết giữa các địa phương chính là khác biệt cơ bản nhất của VN so với các nước, vì thế việc giãn dân khó thực hiện sau nhiều năm công nghiệp hóa. Tóm lại tôi nghĩ, cái vòng lẩn quẩn của những người di dân là: không có việc làm tại địa phương nên họ tìm đến nơi khác, từ đó tạo ra thiếu hụt lao động cho địa phương, dẫn đến khó quy hoạch các dự án thu hút doanh nghiệp tham gia ngay ở địa phương, theo đó tiếp tục thiếu việc làm và tiếp tục thúc đẩy dòng người di dân. Vì vậy, để giảm bớt dòng người di dân, các vùng nông thôn làm nông nghiệp nên đẩy mạnh các mô hình sản xuất hợp tác với tổ chức vận hành chuyên nghiệp và ổn định để thực hiện tốt chức năng cung ứng đầu vào cho các nhà máy chế biến tại các vùng vệ tinh. Được vậy, lao động sẽ có việc làm tại chỗ nên chắc chắn họ sẽ ở lại quê nhà. Đồng thời chú trọng chính sách đẩy mạnh khởi nghiệp ở các vùng nông thôn trong các lĩnh vực địa phương có thể. Việc này góp phần tạo ra công ăn việc làm tại chỗ, sẽ tác động tích cực vào quá trình giãn dân, hạn chế di cư… Nếu bài toán giãn dân không được Nhà nước giải quyết trong thời gian sớm nhất, chẳng những nó sẽ luôn tạo áp lực cho các thành phố lớn, mà ngay cả các địa phương cũng khó phát triển kinh tế!”

Người nhập cư chấp nhận làm đủ thứ nghề để kiếm sống

Bài và hình NS