Tôi được quen biết nhà thơ Nguyễn Đức Sơn tức Sơn Núi hay Sao Trên Rừng qua bạn tôi, họa sĩ Đào Nguyên Dạ Thảo. Tuy nhiên tôi chưa từng gặp ông dù có thư từ qua lại, dù rất mến thơ của ông, vì mỗi người một phương. Mới đây Dạ Thảo cho tôi biết hiện bệnh của ông đang trở nặng, tôi cảm thấy lo lắng nhiều đến sức khoẻ của ông. Tôi chỉ sợ không may thì….

Họa Sĩ Hồ Hữu Thủ, Đào Nguyên Dạ Thảo, Nguyễn Đức Sơn   

Nếu đồi Phương Bối vắng bước chân ông, trăng Phương bối tìm đâu ra cái bóng đồng hành để cùng say khướt đổ nghiêng bên những gốc tùng xanh ngắt. Cây ổi đồi cao tìm đâu ra tên đạo chích ăn trộm nửa quả ổi rụng đã bị dòi ăn nửa kia?

Trưa đứng một mình đợi ai lên

Đất trời đâu có dưới và trên

Đồi cao ổi sót rụng một trái

Dòi ăn một bên ta một bên.

(Rụng một trái)

Rừng Phương Bối cũng không thể thiếu đi một ánh Sao, một gã Du Tử có hỗn danh là Sơn Núi, lúc cô đơn thì đi luồn vô núi, khi mệt nhoài, chân rục rã, thì đi luồn ra núi. Thế gian còn ai ngông nghênh hơn một người thơ, khuya nằm nghe đá hát, sáng dậy ngắm hoa nở để,

Đụ mẹ

Cây bông

Hắn không

Lao động

Ai trồng

Chật chỗ

Mày nhổ

Xem sao

Máu trào

Thiên cổ

Ngôn ngữ ấy, phong thái ấy của Nguyễn Ðức Sơn đã gây tác động mạnh cho người đọc, cho riêng tôi vào những năm 2000. Nhận thấy thơ ca Việt Nam ngày đó có nhiều thay đổi và gây sốc mạnh, năm 2003 tôi đã viết một bài tiểu luận nói về thơ Việt Nam và các “Chấn động văn hoá trong thi ca đương đại”. Trong đó thơ Nguyễn Ðức Sơn là một điển hình. Ông đã viết rất táo bạo và sử dụng những từ như “đái”,” đụ” một cách dữ dội để bày tỏ sự phẫn nộ, hay một giải toả tâm lý trước những bất công xã hội.

Mắc đái là mắc đái

Làm thơ cũng cùng hình thái

Không còn chi để phải nói lại

Trừ cái sự vụ hai trứng dái

Săn cón lên báo giờ quan ngại

Xem thêm:   Mua phi cơ riêng

Trong khi thơ rụng như cây chín trái

Khôn ngoan ta đưa tay hái

(Làm thơ-Hợp Lưu số 37,47)

Cố HS Đinh Cường, Chị Phượng (Vợ NĐS), Bửu Ý

Là một người viết nữ, tôi đặc biệt chú trọng rất kỹ cái cách mà ông dùng từ ngữ trong thơ ca để miêu tả người nữ của ông.

Nửa đêm soi bóng trăng tròn

Thấy đau trời đất rõ còn trong thai

Các em đều chẻ làm hai

Từ đâu một chỗ rách dài thiên thu

Hồn tôi, con thú cần cù

Nằm chơi trong cát bụi mù vuốt ve

Hỏi thăm, nước chảy xè xè

Chỉ nghe tịch mịch phủ đè rêu xanh

Ngôn ngữ thân xác và hành động dục tính được ông tận dụng vì nó có khả năng mở được cánh cửa nội tâm con người, nó bày được những trạng thái tâm và sinh lý. Ông ngầm ca tụng cái đẹp của dục tính, cái mỹ của thân thể người phụ nữ, cái thuật của tình dục.

Em là chiếc bánh nếp

Với cái nhân quá to

Anh vừa lết vừa bò

Liếm một đời không hết

Mắc võng…

Trên đồi cao

Anh xôn xao

Như gió

Anh lấp ló

Như trăng

Anh lằng nhằng

Như dái

hoặc

Anh sẽ đến bất ngờ ai biết trước

Miệng khô rồi nẻo cực lạc xa xôi

Ôi một đêm bụi cỏ dáng thu người

Em chưa đái mà hồn anh đã ướt

Hai đứa nhìn nhau bảo phải êm ru

Em sắp đái và hồn anh chết cứng

(Hợp Lưu số 47)

Thủ bút của NT Nguyễn Đức Sơn

Ngôn ngữ thân xác còn có khả năng gây sốc. Nó gây sốc vì nó bị cấm kỵ. Càng bị cấm kỵ càng gợi tính tò mò của người đọc. Khả năng gây sốc chính là đề tài những cuộc tranh luận về những từ ngữ được gọi là “tục tằn” được gã làm thơ ngông liên tiếp tuôn ra làm người đọc khó chịu. Ngôn ngữ ông dùng vừa tân, vừa cổ, vừa lãng mạn, vừa dung tục. Khi trắng, khi đen, phơi bày lồ lộ, lúc mờ, lúc nhạt, thơ thẩn, lượn lờ, kỳ ảo. Có thể nói, có hai cực trong con người ông, khi chánh, khi tà, khi thô ráp, lúc dịu dàng, âu yếm. Trong hình ảnh một con thú cần cù ẩn mình trong những đêm cát bụi, con thú đực nằm chơi bên bờ cỏ đêm để thấy hồn mình ướt và xôn xao như trăng, như gió.

Xem thêm:   Chuyện hay, dở của năng lượng từ mặt trời

Có lần tôi viết thơ cho ông, nói về những cảm nhận của mình về lối ông làm thơ cho người nữ. Tôi nhận xét rằng ông phải yêu người nữ ấy lắm mới làm nên được những vần thơ như vậy. Ông xác nhận điều này và hay gọi tụi con gái chúng tôi và Dạ Thảo là gà, vịt, giun, dế, tôi thấy vui vui một cách thú vị trong cách gọi ấy. Ông cũng gọi con ông, vợ ông là con gái, gái con, con nhóc, con cóc, con nhái. Có lẽ ông cũng hiểu hơn ai hết cái tính ngang bướng, ngông nghênh, hành động theo ý riêng của mình không kể hậu quả, thiệt hơn, nên ông lấy bút hiệu là ngôi sao cô đơn mắc đọa trên rừng. Bửu Ý đã gọi NÐS là hình ảnh của một con tê giác, đơn độc, quắt queo, từ cách ăn nói cho đến dáng đi, húc đầu về phía trước.

Gái con

Con gái

Con Cóc

Con nhái

Con cái

Con nhóc

Chưa bóc

Em ra

Hồn ta

Gần khóc

Hay

Gái con

Con gái

Giấu mãi

Trong hang

Cái màng

Thiên địa

Run lịa

Hồn anh

Mong Manh

Ngàn kiếp

Người con gái đương xuân như đóa lan rừng thơm ngát vừa hé nở đêm trăng mười sáu. Gã thi nhân ngủ quên trên bờ cỏ ướt, nằm mơ thấy mình là chú bướm đêm vơ vẩn bay đi tìm mật. Gã chợt thấy mảnh hồn mong manh của mình run bắn, đôi cánh bướm bỗng chập chờn hư ảo như ngã vào mông lung khi đối diện cái màng thiên địa tinh tuyền của nhụy hoa. Ôi đẹp làm sao ngôn ngữ xác thân mà NÐS đã dùng để tả người con gái băng trinh còn giấu cái màng thiên địa trong hang!!!

Gái con

Con gái

Cái gái

Con con

Trắng nõn

Trắng nà

Ngọc ngà

Trời đất

Bất nhất

Vạn niên

Gậy thiền

Chưa thọc

Tiểu Khê và Phương Bối (con gái NĐS)

Thuật dụng ngữ trong thơ ca càng giản đơn, càng cô đọng, chữ dùng càng phải chắt lọc. Trong bài thơ 12 câu ở trên, hai câu cuối thật sự gây sốc cho tôi khi đọc câu “Gậy thiền, chưa thọc”. Tôi nghe người ta nói “cái gậy của thằng ăn mày”, hay chọc lung tung, nhưng cái câu “Gậy thiền, chưa thọc” được dùng trong ý nghĩa nội dung bài này, quả làm tôi sửng sốt. Ý nghĩa “Cây gậy thiền” được giảng nghĩa trong nhà Phật là cây gậy của trí tuệ, của chánh niệm. Cây gậy chặt đứt lục căn, lục trần, lục thức. Cây gậy đánh tan vọng tưởng, giúp tâm ta sáng suốt, và biết dùng trí tuệ để khắc phục vô minh để đem lại sự thanh tịnh, tinh khiết trong tâm của chúng ta. “Gậy thiền” được dùng như cái chân thứ ba của con người hay cái gậy của thằng ăn mày của NÐS trong bài thơ ở đây ắt hẳn không có cái nghĩa của thiền tông mà chỉ có thể được xem là ngôn từ “Phạm Thánh”. Nhưng với ông Phạm Thánh là chuyện thường ngày và không biết trong lòng ông có vị nào là Thánh không nữa.

Xem thêm:   Tân trang nhà cửa

Bên bờ suối

Anh tặng em

Hai củ khoai lang

Một trái chuối

Ăn rồi

Còn thấy tử sinh

Đắm đuối

(Trưa)

Giấc mơ và đời sống là hai thực thể khác biệt. Bên những vì sao sáng vẫn có những làn sương che mờ ánh sao. Tuy nhiên em ơi dù sống khó, con chim trong thơ ca gã du sỹ vẫn hát véo von buổi trưa nào bên bờ suối trao em món quà đơn sơ một trái chuối và hai củ khoai lang mà vẫn thấy hạnh phúc của tử sinh sao mà ngọt.

Sao lạnh quá

Không thấy bóng Hạnh

Đi qua

Đứng từ xa

Tôi đã thấy

Núi khóc

(Chiều ơi)

Cũng có lúc núi cũng phải lạnh, phải khóc hu hu khi không thấy bóng người. Gió đã quên lời hẹn hò, cây đã ngưng tiếng rì rào, trái tim và đôi mắt cùng nhau buông thả …

Cùng với thơ

Chẳng lẽ

Chỉ còn có

Một cách

Là đứng một chân

Trên núi

(Sống)

Ôi sống với thơ là một khốn khó vô biên. Làm thơ và để sống còn cùng thơ mà không chết vì đói có lẽ là một nan giải đời người. Nhà thơ yêu núi, yêu đá NÐS đã tự hỏi bao nhiêu lần trong tuyệt vọng, làm sao có thể sống với thơ và làm thơ mà không phải ăn, phải uống, phải lăn lộn mưu sinh cho vợ con và gia đình. Và ông đã tìm ra giải pháp “Ðứng một chân trên núi!!!”.

TTT

Orange County, CA