Trung thu thời chúng tôi, tức cái thời vừa bước qua khỏi biến cố lịch sử 1975, mọi nhà phía Nam vĩ tuyến 17 sống một đời sống khác, kinh tế tập thể, hợp tác xã, không ai có tivi, mà nếu có cũng không biết mở cái gì vì không có sóng tivi, con nít chủ yếu chơi các trò đồng dao, người lớn thì ốm nheo ốm nhách, lăn lộn ngoài đồng, trưa về lận theo con tép con tôm mà “cải thiện” bữa, lúa gạo làm xong lại chở về hợp tác xã và chờ tới cuối vụ, hợp tác xã gọi lên nhận theo công điểm do ông Đội trưởng đội sản xuất chấm. Nhưng Trung thu thời đó vui và nhớ lắm!

Đầu lân được bán khắp đường  

Trung thu thời đó, cái thời nghèo khổ ấy, ông Đội trưởng Đội sản xuất làm quản trò (bây giờ gọi là MC), con nít trong đội ngồi thành vòng tròn, ông đứng giữa dẫn chuyện, rồi bày trò chơi “xì điện”. Trò chơi này, trước tiên con nít tự giới thiệu tên với nhau, đứa nào thuộc được nhiều tên nhất là thắng. Tức là ông chỉ một đứa ngẫu nhiên đứng lên hát, sau đó đứa hát đó sẽ chỉ một đứa bất kỳ, đứa bất kỳ kia sẽ chỉ một đứa khác, cứ như vậy chỉ loạn xà ngầu lên cho đến đứa nào đớ người ra (mà rất dễ đớ vì mỗi đứa chỉ được chỉ đứa khác đúng một lần, nếu lần sau, đứa khác chỉ trúng mình mà mình chỉ đúng đứa cũ là bị phạt thụt dầu, tức đứng lên ngồi xuống trong tư thế hai tay chéo nhau nắm vào hai tai, thụt xong thì hát, đến lượt đứa sau không được hát bài đứa trước đã hát). Hồi đó bài hát hiếm lắm, đứa nào giỏi lắm thì thuộc chừng 5 bài là cùng, nên kỹ năng chỉ và nhớ tên tức thì rất giỏi.

Xem thêm:   Vẽ tranh tường nghệ thuật hay bôi bẩn?

Chơi xong một vòng xì điện thì chuyển sang xem múa lân, hồi đó làm gì có trống da trâu hay da bò, thường thì cái đầu lân tự dán, mấy miếng vải bằng bao tải cắt ra làm đuôi lân và cái thùng thiếc gánh nước uống bằng nhôm máy bay (Mỹ) sót lại sau chiến tranh được tháo cái thanh ngang bằng gỗ, bịt miếng vải dù (cũng của Mỹ) vào, buộc dây thun thật chặt, sau đó kéo các mép vải cho căng, vậy là có cái trống múa lân. Cái trống này tuy nhỏ nhưng khi đánh phải có tới hai người, một người đánh, một người liên tục kéo các mí vải cho căng sau mỗi đợt dùi gõ. Nghèo mà vui!

Hầu như ít thấy đèn ông sao tự dán

Vui bởi cái nghèo hồi đó còn trong veo trong nỗi khốn khổ của kẻ thất thời, thất thế. Vui bởi thời đó chẳng ai nghĩ đến chuyện cơ hội, và cũng chẳng có cơ hội gì mấy để mà nghĩ, nên hầu như người lớn chân chất, mộc mạc, còn con nít thì trong veo, mọi thứ diễn ra thật tự nhiên, như thể đất với nước, với cỏ cây, mây trời vậy.

Thế rồi cái thời ấy cũng chấm dứt trong một buổi chiều, tôi nhớ năm 1986, năm đổi mới kinh tế, với những người dân nói chung, xem như đây là cuộc mở trói, nhưng với dân làm ăn, đây là cơ hội, mà có gì đáng sợ hơn thứ cơ hội của cái thời nửa nạc nửa mỡ này. Kết quả thì bây giờ đã thấy rõ rồi, những con cá mập cổ đỏ đã nuốt chửng mọi thứ, không chừa một thứ gì… Tôi nhớ đó là buổi chiều cuối cùng tôi được nhận quà Trung Thu, thay vì được gọi lên sân đội để nhận thì sân đội lúc này đã bỏ, vì đội sản xuất đã giải tán. Những người trong hội Phụ nữ mang đến nhà tôi một cái gói giấy, bắt mẹ tôi ký nhận, mẹ tôi lắc đầu, thở dài. Bên trong gói giấy là một ổ bánh mì dài, làm khá là vụng về, bên trong ổ bánh mì là một lát thịt heo mỡ không hiểu người ta xắt kiểu gì mà nó dài khủng khiếp và mỏng dính, có rải một ít ớt bột.

Bánh trung thu trở thành mặt hàng phổ biến

Thời đó hiếm bánh mì lắm, phải con nhà thành phố hoặc nhà ở quê khấm khá mới có ổ bánh mì để mà ăn cho biết vị. Với đứa bé quê nghèo như tôi, ổ bánh mì lạ lẫm lắm, thế nhưng không hiểu sao chiều hôm đó, tôi thấy ổ bánh mì nhạt và dở không thể chịu được. Tôi nhai được nửa ổ thì chịu, đành bỏ. Và cái ổ bánh mì ấy ám ảnh tôi cho đến khi tôi đã là sinh viên năm thứ hai đại học vẫn còn thấy sợ bánh mì, cho đến khi đứa bạn thân tặng cho một ổ bánh ở ký túc xá khuya, tôi mới vỡ lẽ là bánh mì ngon vậy mà lâu nay mình sợ.

Xem thêm:   Mùa đông ở Steamboat Springs

Và cũng sau cái mốc ấy, dường như con người cơ hội nổi lên hơi nhiều, mọi thứ đều kỹ nghệ hóa, mọi thứ đều màu mè, chẳng còn cái ý vị thời tuổi thơ của tôi, và cũng chẳng thể ý vị như thời tuổi thơ của cha mẹ tôi, bởi thời ấy, qua lời kể của cha mẹ, tôi thấy quá thần tiên, quá thơ mộng. Cái thời ấy qua rồi. Còn với trẻ nhỏ bây giờ, làm gì có chuyện thèm những chiếc bánh ú gói bằng nếp hoặc thèm những cây kẹo ú, kẹo mè như thời chúng tôi. Bây giờ, nhiều đứa trẻ chỉ thích ba mẹ tặng cho tiền hoặc loại bánh thật sang chảnh, thậm chí bánh có dát vàng càng hay. Và mọi thứ đã thành kỹ nghệ, không gian đồng dao với ánh trăng bàng bạc, dịu mát đã nhường chỗ cho không gian thương mại với ánh đèn điện sáng chói lóa và nóng nực. Tâm thức trẻ thơ trong trẻo, thơm tho hương đồng đất rạ đã được thay thế bằng những thứ mùi thơm chứa đầy hóa chất và đâu đó trong sâu thẳm, tiếng gọi của một thứ gì đó không còn là trẻ nít nữa, không còn trong trẻo nữa, nghe có gì đó đầy tham vụng đang dần trỗi dậy trong tiếng trống lân thị trường. Nghĩ mà buồn, mà tiếc, nhưng thời gian vốn rất vô tình, thậm chí vô tâm!

PH