Phan Tấn Hải
Nhà văn Trịnh Y Thư vừa ấn hành tuyển tập Theo Dấu Thư Hương 2, gồm nhiều bài viết trong nhiều chủ đề đa dạng, phần lớn là về văn học nghệ thuật, đôi khi là lịch sử, khoa học, xã hội. Tuyển tập dày 294 trang, đang lưu hành trên các mạng, như Amazon và Barnes & Noble. Nhìn chung, tác phẩm giúp độc giả soi rọi thêm nhiều cách nhìn đa dạng, mới mẻ, kể cả khi tác giả viết về những người viết chúng ta đã quen thuộc trong văn học Việt Nam, như về Ngô Thế Vinh, Đỗ Hồng Ngọc, Nguyễn Thị Khánh Minh, và nhiều người khác.
Tác giả gọi tuyển tập này là “tạp luận”, nhưng đọc cho kỹ, không có gì có thể gọi là “tạp” nơi đây, vì đây là trường hợp, như với truyện Khuất Đẩu, theo Trịnh Y Thư, “tôi đã nghiền ngẫm đọc để có bài viết trong cuốn sách” (TDTH2, trang 13) hay có khi là “tôi chọn ra được vài ba bài đắc ý” (trang 14) từ các bài anh viết trên Việt Báo Daily News, hay như “những chuyện xảy ra bên lề lịch sử hay bị chính sử gạt sang một bên, bôi xóa, bóp méo, khiến tôi cảm thấy thôi thúc muốn nói lên cảm nghĩ của mình” (trang 14) – và, thế đó, chỉ từ việc anh đọc sách để rồi viết sách, “không chỉ là hành động đơn độc mà là cách sống trong cô đơn một cách có ý nghĩa. Nó biến cô đơn thành kết nối, dửng dưng thành suy ngẫm, và im lặng thành đối thoại.” (trang 13).
Trịnh Y Thư hy vọng một cuộc đối thoại. Có thực là đối thoại có thể xảy ra trên quê nhà chúng ta, nơi chữ nghĩa đã trở thành vũ khí chứ không chắc bao nhiêu phần là ghi lại sự thật và thảo luận? Để hình thành một cuộc đối thoại, trước tiên là cần lắng nghe. Đặc biệt là các đề tài liên hệ lịch sử, cần phải trung tính để đọc cả những sự thật khó nghe đối với phe ta, phe mình… nơi trong nhiều thập niên chúng ta bị đẩy vào dòng sông lịch sử hai bờ. Như trường hợp tiểu thuyết của Bảo Ninh đang được (hay bị) tranh luận hiện nay, từ những trang sách viết từ cô đơn, lặng lẽ rồi trở thành chuyện chụp mũ ngay trong các pháo đài văn học Hà Nội. Nếu Bảo Ninh không phải người bên kia, mà là người bên này, thì bạn sẽ không tìm được bản sách giấy nào trong quê nhà chúng ta. Bất kể rằng, Bảo Ninh đã dựng một số chuyện không thật để bôi nhọ tư cách người lính Miền Nam.
Tuy nhiên, Trịnh Y Thư là một người rất thơ mộng, và chàng đã viết với hy vọng “im lặng thành đối thoại.”
Sách Theo Dấu Thư Hương 2 mở đầu bằng một “Lời Ngỏ” dài 4 trang, kế tiếp là 18 bài viết nhiều chủ đề, cuối cùng là cuộc đối thoại thực sự với Nhã Lan trong chương trình phát thanh “Tản Mạn Văn Học” trong hình thức Nhã Lan hỏi và Trịnh Y Thư đáp. Sau cùng là vài trang tiểu sử và danh sách tác phẩm.

Nhìn chung, tuyển tập Theo Dấu Thư Hương 2 thuộc loại “nghiêm và buồn,” nghĩa là, sách dày 294 trang, cầm lên rất là nhẹ, nhưng khi bạn càng đọc, càng suy nghĩ, càng ngấm từng dòng chữ của tác giả, sách bỗng trở nên nặng trĩu tay. Nhưng đó là một nỗi buồn rất nghiêm túc mà bất kỳ người viết nào cũng có sẵn và dễ dàng được khơi dậy.
Ngay nơi trang bìa sau của tuyển tập, in một trích dẫn từ “Lời Ngỏ” của Trịnh Y Thư, cũng là những hình ảnh “nghiêm và buồn” (như: cô đơn, định hình và tái định hình đời sống nội tâm, hiện sinh, cái chết, ý nghĩa cuộc đời, tình yêu, sự vong thân…) được tác giả mô tả:
“Sự cô đơn của việc đọc sách trở thành chất xúc tác cho việc định hình và tái định hình đời sống nội tâm. Đọc sách cũng khiến bật lên những khía cạnh triết học, đặc biệt là sách văn học và triết học, bởi nó giúp chúng ta tiếp cận với những câu hỏi hiện sinh như cái chết, ý nghĩa cuộc sống, tình yêu, sự vong thân. Tính cách đối đầu này chỉ có thể xảy ra trong một tâm trạng quán chiếu cô đơn; nhưng nó giúp ta đối mặt không phải trong tuyệt vọng, mà trong sự thấu hiểu lẫn nhau. Tóm lại, như một thái độ đối với cô đơn, không phải đối đầu lại mà hòa nhập vào, đọc sách không chỉ là hành động đơn độc mà là cách sống trong cô đơn một cách có ý nghĩa. Nó biến cô đơn thành kết nối, dửng dưng thành suy ngẫm, và im lặng thành đối thoại.”
Bài đầu tiên in sau Lời Ngỏ là bài “Sự Lãng Quên” đã kể về trường hợp Nguyễn Hữu Đang, người đứng trên lễ đài sau lưng ông Hồ trong buổi lễ đọc Tuyên Ngôn Độc Lập của Việt Nam ngày 2 tháng 9 năm 1945 và khoảng thập niên sau tham dự nhóm Nhân Văn Giai Phẩm để đòi tự do trong sáng tác văn học, đã bị nhà nước chuyên chính vô sản tẩy xóa từ hình ảnh (tẩy trắng hình chụp ở lễ đài) cho tới tẩy xóa mọi mặt trong xã hội, đẩy vào từ nhà tù cho tới cô lập.
Điều tuyệt vời là, trong tuyển tập Theo Dấu Thư Hương 2, chúng ta sẽ thấy Trịnh Y Thư viết rất là thơ, nơi những dòng chữ có sức mạnh buộc tôi đọc đi đọc lại, để suy nghĩ xem thế nào, chất thơ nơi đâu trong chữ của tác giả.
Bạn có thể mở bất kỳ trang sách nào của Theo Dấu Thư Hương 2, và xác suất rất cao là bạn sẽ gặp thơ trong văn xuôi Trịnh Y Thư. Thí dụ, tôi mở ra tình cờ (thật sự là tình cờ, không cố ý, dĩ nhiên, lúc khác sẽ cố ý) nơi trang 105, Trịnh Y Thư viết:
“Đọc thơ Nguyễn Thị Khánh Minh là chìm đắm trong một khu vườn chữ nghĩa óng ả, nhiệm mầu, sáng lấp lánh như những chuỗi ngọc. Chị không phát minh nhiều từ mới như các nhà thơ Tượng trưng, nhưng các từ trong thơ nằm cạnh nhau thân thiết như đàn chim thiên di rủ nhau xuôi nam tìm nắng ấm. Chữ nghĩa đẹp, gợi cảm, như có ma lực làm say đắm lòng người đọc. Chị sử dụng phép hoán dụ rất tài tình trong thơ, điều đó càng làm tăng sự phong phú và gợi cảm. Mặt dệt của chữ nghĩa lóng lánh như hoa gấm, ý tứ tuy kín đáo, thâm trầm nhưng nồng nàn hơi thở.” (TDTH2, tr. 105).
Những dòng chữ đó là thơ, không phải phê bình văn học. Nếu cụ Nguyễn Du mà viết về thơ Hồ Xuân Hương như thế, hẳn là tôi sẽ xé trang giấy ra, đưa ra tiệm đóng khung rồi treo lên tường. May quá, không phải cụ Nguyễn và chị Hồ. Có thể sẽ là người của hai trăm năm sau sẽ làm như thế?
Từ trang tình cờ mở ra đó, tôi dò ngược tới, và thấy ngôn ngữ Trịnh Y Thư viết về thơ của duyên, trích: “duyên làm thơ như nói chuyện. Nói thầm thì. Nói trong niềm vui. Nói trong nỗi buồn. Nói trong nỗi nhớ. Nói với người. Nói với cỏ cây hoa lá. Nói với hư vô. Nói với cô đơn.”(TDTH2, tr. 86). Cũng là thơ viết về thơ.
Trịnh Y Thư cũng viết về nỗi chấn động, khi anh phải đọc một mạch những bài thơ của Lê Chiều Giang, vì sức mạnh của những dòng chữ mà anh gọi là đầy ắp đau đớn, “Sự phẫn nộ trong thơ Lê Chiều Giang đã khiến người đọc là tôi phải chấn động, bởi quả thực tôi chưa bao giờ đọc một mạch những bài thơ mà bài nào cũng đầy ắp những nỗi đau đớn uất nghẹn như muốn tung hê mọi thứ, phá tan đập nát cuộc sống, chẳng cần biết hậu quả là gì.” (TDTH2, tr. 93)
Trong bài “Cảm nhận nhân đọc ‘Thơ ngắn Đỗ Nghê’” Trịnh Y Thư dẫn ra 4 câu thơ Đỗ Nghê (Đỗ Hồng Ngọc) rồi nhận xét, trích (chữ “tôi” dưới đây là Trịnh Y Thư):
“Tôi đặc biệt yêu thích bài Hội An sớm:
Hội An còn ngái ngủ
Mái chùa ôm vầng trăng
Giật mình nghe tiếng chổi
Gà gáy vàng trong sương…
Như một khúc Đường thi. Thi ảnh, tuy cổ điển, nhưng đẹp não nùng. Và, chao ơi, tiếng chổi. Sao lại tiếng chổi từ trong sân chùa một cách mơ hồ vọng ra? Sao không là tiếng tụng kinh, tiếng chuông, tiếng mõ vào buổi sớm? Chính sự bất ngờ ấy, đánh động tâm hồn khiến thi nhân giật mình, đã làm tăng thú vị khi đọc bài thơ. Bất ngờ hơn chuyện ông Trương Kế lúc từ Phong Kiều bước xuống thuyền nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn vọng lại. Bài thơ của Đỗ Nghê là bức tranh hiện thực được vẽ bằng 4 câu thơ năm chữ.” (TDTH2, tr. 117).
Chỉ cần đọc vài trang bất kỳ của Theo Dấu Thư Hương 2, bạn sẽ kinh ngạc tự hỏi, rằng có mấy ai trên đời viết phê bình văn học y như làm thơ như thế? Dĩ nhiên là có. Trước kia, có Bùi Giáng, Tuệ Sỹ… nhưng mỗi người một kiểu riêng. Thí dụ, nhà sư Tuệ Sỹ viết về Tô Đông Pha, về Lưu Hạ tuy là nói về các cõi thơ mộng nhưng vẫn giữ văn phong trong cổng chùa. Bùi Giáng viết về Ni cô Trí Hải, về Tuệ Sỹ tuy là đùa giỡn, phóng túng nhưng vẫn là nhà thơ nói với nhà thơ. Nơi đây, Trịnh Y Thư gây một kinh ngạc cho tôi, vì Trịnh Y Thư là một người biệt xứ từ năm 17 tuổi, du học lại chọn các ngành khoa học, kỹ thuật… không được đắm chìm trong một xã hội tiếng Việt nhiều thập niên như tôi và nhiều nhà văn khác.
Trong tuyển tập Theo Dấu Thư Hương 2, một nhà văn nổi bật qua các trang phê bình của Trịnh Y Thư là Ngô Thế Vinh, một bác sĩ nhưng cầm bút từ thời sinh viên và gắn liền với những sóng gió lịch sử của dân tộc, từ thời làm báo ở Đại học Y Khoa Sài Gòn cho tới tham gia cuộc nội chiến, và nhiều năm tù cải tạo trước khi sang Hoa Kỳ định cư. Ngô Thế Vinh được Trịnh Y Thư gọi là “nhà văn dấn thân” (TDTH2, tr. 139) và là “nhà văn của lương tâm” (TDTH2, tr. 141) khi nhắc tới một thời trước 1975 khi “Ngô Thế Vinh bị bắt ra hầu tòa với tội danh ‘phổ biến những luận điệu phương hại trật tự công cộng và làm suy giảm kỷ luật, tinh thần chiến đấu của quân đội’…” (TDTH2, tr. 140).
Trịnh Y Thư cũng gọi Ngô Thế Vinh là nhà văn đã không chọn con đường dễ dãi khi lặn lội khắp vùng Cửu Long để trở thành một “con chim báo bão” với nhận định, trích:
“Trong vòng mấy chục năm qua – với hai tác phẩm quan trọng gây tiếng vang không ít, Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng và Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch, cộng thêm hàng chục tiểu luận biên khảo, nghiên cứu giá trị về những biến đổi nguy hại của hệ sinh thái sông Mekong – ông mặc nhiên được xem như một chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực này, và một cách ưu ái hơn, con chim “báo bão” về mối đe dọa thường xuyên và ghê rợn từ phương Bắc đối với sự sinh tồn của đất nước và dân tộc. Để thực hiện các bộ sách về sông Mekong ông đã lặn lội từ tỉnh Vân Nam, Trung Quốc xuống các quốc gia Lào, Thái Lan, Kampuchia và đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. Qua các chuyến đi quan sát thực địa, ông đã tận mắt chứng kiến sự suy thoái bất khả đảo nghịch của con sông Mekong, “hậu quả dây chuyền của những bước khai thác tự hủy, tàn phá sinh cảnh, làm cạn kiệt nguồn tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường,” do chính sách phát triển kinh tế bất chấp hậu quả tai hại ra sao của nhà cầm quyền Trung Quốc, mà Việt Nam là quốc gia lãnh chịu hậu quả nặng nề và thiệt thòi nhất.” (TDTH2, tr. 140-141).
-Nhìn chung, văn phong phê bình của Trịnh Y Thư đa dạng, và luôn luôn hướng về những gì có tính thăng hoa của nhân loại. Trong bài viết “Vũ Thư Hiên: Lời xưng tội lúc nửa đêm,” Trịnh Y Thư nhận định:
-“Nhưng bên dưới những sự thật tàn bạo trần trụi được phơi bày qua chữ nghĩa, là tính nhân bản và cái “human spirit”. Đấy chính là tính văn học đích thực trong truyện Vũ Thư Hiên. Cái “human spirit”, hiển lộ trong những truyện ngắn của ông, không hẳn chỉ đơn thuần là tinh thần, khí thế hay sự can trường của con người trước nghịch cảnh theo cách hiểu bình thường, nó còn là biểu hiệu cho “lòng khao khát muốn sống và được sống như con người”. Và, như chúng ta đều biết, muốn sống và được sống như con người là một điều cực khó.” (TDTH2, tr. 190).
– Một điểm nữa, Trịnh Y Thư có một văn phong đặc biệt, khi đặt nhan đề, tìm ra những tựa đề có tính tượng hình. Tôi ưa thích đặc biệt bài “Khuất Đẩu: Đi tìm bóng mình trong cơn lũ cuồng nộ của lịch sử” – không chỉ nhan đề rất thơ mộng, rất dữ dội, rất nghiêm và buồn, mà cũng về cách truyện của Khuất Đẩu được phân tích.
– Trong bài “Đọc tiểu thuyết THUYỀN của Nguyễn Đức Tùng: Những ký ức cuồng nộ về một thời bão táp” (cũng là một tựa đề nhiều hình ảnh), Trịnh Y Thư nhận định về cuốn tiểu thuyết trong bối cảnh về một thời vượt biên, nơi nhà thơ họ Nguyễn có một văn phong truyện rất mới…
– Trong tuyển tập Theo Dấu Thư Hương 2 vẫn còn nhiều bài khác, với nhiều chủ đề khác… xin mời độc giả lần mở từng trang sách. Bài giới thiệu sách nơi đây không thể nói hết những gì tuyển tập chuyên chở. Nếu bạn là nhà thơ, bạn sẽ thấy những quan tâm rất lớn trong tuyển tập, thí dụ như bài “Tại sao chúng ta làm thơ?” nơi các trang 67-85. Nếu bạn là nhà văn, một người viết văn xuôi, bạn tất nhiên sẽ chú ý bài “Tản văn, Tùy bút và Ký giống, khác nhau như thế nào?” nơi các trang 59-66. Và nếu bạn quan tâm về văn học Mỹ, bạn tất nhiên sẽ ưa thích bài “Tính đa dạng và hòa nhập trong văn học Mỹ” nơi các trang 223-238.
-Nói ngắn gọn, Theo Dấu Thư Hương 2 có sức mạnh lôi cuốn nhiều độc giả sẽ đọc một mạch, không muốn buông tay xuống để nghỉ. Đây là một tuyển tập rất thơ, rất cuồng nộ, và cũng rất buồn. Đây là những dòng chữ rất mực khó tìm trong cõi này.
PTH








