“…Chỉ là những câu chuyện vụn vặt được chắp nối qua những mảnh đời dân quê miệt kinh rạch hầu san sẻ cùng bạn trẻ, những người chưa hoặc không có dịp sống gần gũi với dân ruộng về các miền kinh rạch ấy như một nét đặc thù của văn minh Việt bên cạnh một nếp “văn minh miệt vườn” khá sung túc, trù phú…” (Hai Trầu Lương Thư Trung).

Luôn tự nhận mình là một “người nhà quê”, nhưng ai cũng hiểu là cách nói khiêm cung của một học giả, kiến thức quảng bác, như bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trìu mến nhận định “Nó là văn chương miệt vườn. Sau này muốn biết về miền Nam mưa nắng hai mùa ra sao thì phải đọc Sơn Nam và Hai Trầu thôi.”.

Mời bạn cùng chúng tôi dạo chơi cùng mưa nắng miền Nam…

(tiếp theo)

Kinh Xáng Bốn Tổng ngày 17 tháng 02 năm 1999.

 

Chú Tám của sắp nhỏ,

Mới hôm cận Tết, tui có gửi cho chú một cái thơ, không biết chú có nhận được chưa? Vậy mà rồi lại ăn Tết nghe chú Tám. Cũng bánh mứt, cũng thịt heo, thịt gà, cũng cá lóc, cá rô tưởng như mình không phải nhà nghèo vậy chú! Thôi thì, cũng lo cho xong Tết với nhất để sắp nhỏ nó mừng.

Tui bây giờ già rồi chú Tám à! Mỗi lần Tết là mỗi lần mình già thêm! Ngặt một nỗi, ngày xưa Trời ban ân “người già người lột, rắn già rắn tột đầu săng”; nhưng con rắn nó lanh miệng hơn, nên nó nói ngược lại “rắn già rắn lột” vì vậy miễn Tết là mình già. Và rồi không ai lột vỏ mà sống đời được!

Tui cứ ngẫm nghĩ ba cái lặt vặt kế bên mình rồi thấy đời vậy mà lắm lúc cũng khó hiểu nghe chú. Rần rần, rộ rộ mấy ngày rồi đâu lại huờn đó! Kẻ cày, người cấy, kẻ chạy ngược, người chạy xuôi để chờ năm tới đón Tết mừng Xuân, chúc tụng nhau như vũ trụ tuần hoàn, bất tận…

Tiếp theo đó là tới mùa hè. Mấy bụi tre ngoài bờ kinh xáng sẽ già, rồi tre sẽ tàn và măng sẽ mọc. Lớp tre này già đốn làm kèo làm cột, lớp khác tấn lên đóng vóc thì làm lạt làm dây. Không ai dại gì chê tre già hay chê măng non mà không trồng tre, không dưỡng măng nữa nghe chú!

Chú Tám à,

Nhớ hồi đó chú ghé nhà tui, chiều chiều tui dẫn chú ra vườn tre sau nhà coi cò về đáp xuống ngọn tre tìm chỗ ngủ. Cò bay rợp một khu vườn, trắng lớp lớp, líu lo giành nhau từng nhánh tre để mà đậu. Nhưng chúng có ngờ đâu trong cái nhá nhem tối, đang có những nạng giàn thun sẵn sàng giương ra bắn đi những cục đạn bằng đất sét vò tròn làm lẹt xẹt mấy nhánh tre. Vậy mà rồi, cò vẫn cứ về đậu đầy vườn tre nghe chú!

Nhắc ba cái này tui nhớ mùi cà phê gần Vàm Ba Bần, mà mấy năm chú vô núi Sập, tối tối tui với chú đi rình bắn cò một hồi rồi về đây ngồi lai rai tới khuya mới ra khỏi quán. Ngọn đèn dầu leo lét vậy mà mình ngồi phát ghiền. Giờ, nghe đâu chú mới mở quán cà phê Cây Me ở bên đó hả chú? Theo thơ chú kể, khách khứa coi bộ cũng bộn. Chú nói cũng nhờ Trời nên tiệm quán mới đông khách như vậy. Tui mừng cho chú. Thời buổi này nghe nói quán xá ế ẩm lắm chú Tám à!

Chú Bảy của Hai Trầu bên thửa ruộng

Chú nhắc sơ sơ tui nghe tên vài vị khách cũng quen hồi tui còn đi học đó mà. Chú biết tại sao không? Vì mấy ông khách uống cà phê quán Cây Me của chú có nhiều người nổi danh từ hồi năm nẳm đó chú. Mấy ổng viết văn làm thơ mà tui ghiền tới bây giờ còn ghiền.

Xem thêm:   Nhạc sĩ Đynh Trầm Ca - xin mội đời ngủ yên dĩ vãng

Lăn lộn với bùn lầy, tóc lác đác hoa râm mà nghe tên là tui nhớ ông khách Phan Nhật Nam có Dấu Binh Lửa liền đó chú! Còn ông khách lão trượng là ký giả Văn Bia nữa, ai mà không nhớ thời xưa đọc báo Sài Gòn Mới là gặp ổng hoài hà… Chắc nay ông khách này già lắm phải không chú Tám? Lâu quá rồi, dễ dầu gì tui được gặp ổng vì mình là dân trong kinh xáng, trong ngọn cạn mà, làm sao có cơ hội gặp một ông ký giả hồi thời Sài Gòn Mới ở cái lộ Phạm Ngũ Lão mấy chục năm hơn!

Còn mấy chục khách còn lại của quán Cây Me, có người tui hơi quen quen, có người tui mới nghe giới thiệu, nhưng chắc rồi chú nhắc đi nhắc lại trong mấy cái thơ tới là tui nhớ ra liền. Tứ hải giai huynh đệ mà! Nên coi vậy mà chú cũng quen biết bộn vì tui hiểu chú cũng biết chiêu hiền đãi sĩ. Tui ngẫm nghĩ, thời buổi gạo châu củi quế này, mấy ai rảnh mà bỏ tiền ra quán ngồi uống cà phê suốt ngày; chỉ có tình, có nghĩa, có tri âm, tri kỷ, có đồng ẩm, đồng điệu mới tới quán Cây Me của chú rần rần như vậy! Phải vậy hông chú Tám?

Tui cũng mừng cho chú gặp lúc hưng thịnh, phát đạt. Hôm nào bầy trẻ có bắt cá chạch, tui biểu sắp nhỏ làm khô và tui gửi cho chú một mớ để lai rai cho vui nhà vui cửa với anh Hai. Nhắc ruợu, là tui nhớ mấy câu thơ này:

“Đêm nguyệt lạnh môi có thèm hơi ấm, 

Ta xin dâng dăm chén rượu mời người,

Rượu dẫu nhạt nhưng lòng ta rộng mở, 

Người cứ vào và thanh thản dạo chơi.”(*)

À, mà chú có nhớ bốn câu thơ này của ai không chú? Nghe đâu, mấy thi sĩ này cũng cùng quê Quảng Nam, quê của chú đó mà!  Rượu ấm hay cà phê ấm có khác gì nhau trong khi cả hai tấm lòng đều rộng mở như nhau!? Thăm chú thím và sắp nhỏ. Ra Giêng, tui rảnh sẽ viết cho chú cái thơ khác.

Cuối thơ,

Hai Trầu

(*) Cước chú: trích “Chén Rượu Mời Người” của Dư-Mỹ và Phan Xuân Sinh (1996)

Trồng tre dưỡng măng

Kinh Xáng Bốn Tổng ngày… tháng 3 năm 1999.

Thư gởi chú Tám sắp nhỏ,

Lá thư trước tui gửi cho chú Tám cách nay hơn tháng, vậy mà nó tới cũng mau, vì tui vừa nhận lá thư trả lời của chú hôm rồi. Bên này cũng cận Tết rồi chú Tám à. Nay là hai mươi mấy Tết rồi. Giờ giấc bây giờ sao nó đi mau quá. Tui mới đây mà đầu tóc đã bạc hơi nhiều, răng cỏ lung lay ráo trọi.

Thư chú viết cho tui nó có một trang giấy mà sao tui đọc đi đọc lại hoài mà nó thấm quá nghe chú! Chú nói về những ngày lưu lạc nơi đất khách quê người; chú kể về tình đồng bào ngoài đó; chú kể về đời sống của đa số bà con; chú kể lại những ngày giáp Tết nơi chú ở; chú kể về mọi thứ trong đó có cái lạnh mùa Đông nữa. Xứ mình là vùng nắng mưa hai mùa, nên gần Tết tiết trời khô, gió bấc hơi rong ngọn là đã gom lá cây đốt lửa hơ rồi. Do đó, khi nghe chú nói chú phải dầm mình trong tuyết, phải cào tuyết phủ lên xe hơi, phải xúc tuyết quanh nhà, tôi tưởng tượng chú chắc cực dữ lắm mà! Giống như bên mình lội bùn, lội sình khi mưa dông lụt lội, khi nước ngập lóp ngóp loi ngoi. Cảnh nào tui thấy cũng cực ơi là cực, dù cực bên này hay bên kia. Phải vậy hông chú Tám?

Xem thêm:   Ông tiên giấu mặt

Chú Tám à,

Gần Tết, tui coi nhật trình thấy ông Vua nước “GIỌT-ĐĂN” mới chết hôm hăm ba, nhằm ngày đưa ông Táo về Trời. Ông vua “HỚT-SANH” đó mà! Tui lại nhà chú Tư Tèo ở Vàm Ba Bần, coi trên truyền hình thấy đám tang của ông Vua lớn quá là lớn. Dân chúng của họ tràn ra đường khóc Vua như khóc cha mẹ chết không bằng. Tui nghiệm ra cái này nghe chú: Ở đâu khi vua chết mà dân thương, dân khóc là ở đó thái bình, thịnh trị hay ít ra ở đó còn cho mình thấy vua thương dân, nên dân mới thương vua mà khóc la thảm thiết như vậy chú Tám à! Nghĩ thương cho ông Vua xứ này, mang chứng bịnh nan y, bất trị, rồi cũng ra người thiên cổ…  Nhớ năm kia, công nương xứ gì bên Ănglê, có cái tên đọc theo tiếng Việt mình là “ĐI-A-NA”, cũng bị tai nạn xe hơi chết lúc còn quá trẻ. Vậy mà cả hoàn cầu, hằng tỉ người nhỏ lệ tiếc thương chỉ vì công nương lúc bình sanh mang trái tim nhân ái của mình đến với người khốn khổ, nghèo khó, cùng những người mang các bịnh tật nan y để chia sẻ cái thê lương của họ hầu xoa dịu phần nào nỗi đắng cay… Đây cũng là cái tình người còn lại trong mỗi trái tim, không phân biệt biên cương, chủng tộc đó chú Tám.

Khó lắm, tui nghĩ nó khó lắm!!! Giữa một thế giới người ta hơn thua nhau từng li từng tí, mà có những con người trên thế gian này khi chết đi mà người ta ai ai cũng tiếc thương như vậy, không phải dễ dầu gì nghe chú Tám à!

Rồi tôi nhớ lại hồi nhỏ đọc Quốc Văn Giáo Khoa Thư có nói trong sách sử của mình cũng có “Ông Vua có lòng thương dân” như vậy. Chú Tám còn nhớ không? Để tui nhắc sơ sơ cho chú nghe nhe. Đại ý là: “Vua Thánh Tôn nhà Lý là ông vua nhân từ, có lòng thương dân. Một năm, trời làm rét lắm, vua nghĩ đến những người tù phạm phải giam ở trong ngục, bèn bảo các quan rằng: “Trẫm ở trong cung, ăn mặc như thế này mà còn rét. Những kẻ nghèo khó, những tù phạm phải trói buộc, cơm không có mà  ăn, áo không có mà mặc, thì khổ sở đến đâu?”. Nói rồi, vua truyền lấy chăn, chiếu phát cho tù. Lại có hôm, đang buổi chầu, có công chúa đứng hầu bên cạnh, vua chỉ vào công chúa mà bảo các quan rằng: “Lòng trẫm yêu dân cũng như yêu con trẫm vậy. Vậy từ nay về sau, tội gì cũng giảm bớt đi.”

Một câu nói của một bậc minh vương nhân từ, đã qua đi hằng bao thế kỷ, mà rồi để lại đời đời trong lòng con dân hậu thế Việt tộc mình đó chú Tám! Có mấy ai được như vua Lý Thánh Tôn!?!

Hôm qua, tui có ghé lên cô Tư, có gặp thằng Thứ bị cụt chưn. Hồi nhỏ nó ở kinh xáng Bốn Tổng với tui. Nguyên cớ là hồi đó nó đi lính ở đồn Gia Vàm, bị thương trong trận giữ đồn, rồi bị cưa chân. Vậy mà rồi, nó nhận được món tiền bảy trăm năm chục ngàn nghe chú. Nghe đâu cũng bằng năm chục đô la gì đó. Thiệt tình tui không rành ba cái vụ đổi tiền này ra tiền kia. Thằng Thứ nó đem khoe với tui là tiền do chú nhờ người bà con đem về nói là tiền anh em bà con bên đó gom góp lại gửi tặng thương binh cũ bên nhà ăn Tết. Nó mừng húm.

Xem thêm:   Gánh ước mơ

Lòng thương người

Tui ngồi nghe nó vừa mừng, vừa nói mà vui lây với nó. Nó nói với tui là nó không ngờ anh em còn nhớ nhau như vậy. Cuộc đời lính tráng của nó sau mấy năm giặc giã rồi thành tàn phế như vậy mà nó vẫn sống lương thiện nghe chú. Tháng nước nó cắc ca cắc củm bắt nhái, đào trùn giăng câu. Có ai mướn lặn đất ruộng đắp bờ, đắp vườn nó cũng lãnh tuốt luốt. Cái chưn cà thọt đi không vững, nó kêu con nó phụ giúp. Mỗi xuồng bề hoành cỡ một thước hai với đất ruộng  khẳm đừ, nó kiếm cũng được ít ngàn. Vậy mà nó lặn hết mùa chở đất như chim cồng cộc mò cá dưới sông chú Tám à! Mùa lúa chín, nó cũng đứng công cắt như ai. Hai vợ chồng với đứa con trai lớn lãnh một công tầm cắt. Mỗi công đất vừa cắt vừa gom cũng kiếm được một giạ rưỡi lúa hột. Mỗi lần gặp tui nó than: “Anh hai ơi, em cũng ráng sức làm lụng kiếm cơm nuôi sắp nhỏ! Khi đói, cái giò què cũng phải bò nữa nghe anh Hai!” Thấy nó cực mình cầm lòng không đậu chú Tám à.

Bữa nay, gặp nó tui thấy gia đình thằng Thứ đang vui như Tết vậy đó chú. Nó cứ mở gói tiền ra khoe rồi gói lại ngồi nhìn. Nó tâm sự với tui như vầy nghe chú Tám: “Em sẽ để dành số tiền này hoài anh Hai à!” Rồi nó nói tiếp:” Để qua Tết, cắt gặt xong, tụi em gom ba hột lúa cắt bán thêm năm ba giạ, nhập vô với số tiền anh em gửi cho mà che lại cái nhà nó xiêu vẹo gần sập rồi anh Hai.” Thằng Thứ vui lắm. Nó nhờ tui gửi lời cảm ơn chú Tám và bà con giúp đỡ nó lúc thắt ngặt. Nghe đâu, cùng trương bạn với nó cũng có nhiều người nhận được quà từ tấm lòng đùm bọc của anh em ngoài đó. Dường như có đến hằng mấy trăm gia đình thương binh như vậy được giúp đỡ đợt này. Phải vậy hông chú? Có tin tức gì chính xác chú biên thư cho tui hay nghe để mà mừng cho anh em tàn phế bên này.

Khi tui xuống xuồng để mấy đứa nhỏ bơi dìa, nó còn nói vói theo: “Em mừng quá anh Hai ơi!” Tui nói với nó: “Tao cũng mừng cho mầy”. Thật tình là trong lòng tui cũng vui thiệt là vui đó chú Tám. Lòng nhân ái ở đâu mà còn, ở đó nó còn có an vui và hạnh phúc. An vui, hạnh phúc đến với người nhận mà nó còn đến cả với người cho nữa nghe chú. Phải vậy hông chú Tám?

Thôi nghe chú, cái thơ bữa nay lan man mà dài quá. Tui vui nên viết hoài mà quên ngừng. Thăm chú thím và sắp nhỏ mạnh giỏi.

Cuối thơ,

Hai Trầu