“Trong sự nghiệp viết các nhạc phẩm, tôi không khi nào hư cấu mà viết bằng tình cảm thật như sớt chia tâm sự của mình nên mới được khán giả đồng cảm và đón nhận”

(Mặc Thế Nhân)

“Làm công việc gì cũng phải có nền tảng để phát triển. Khó mà lèo lái cảm xúc của người nghe theo một hướng nào, trừ khi sáng tác đó hay. Nhạc sĩ cần nhận thấy mình nên sáng tác dòng nhạc nào dễ đi vào lòng người theo thời gian. Ca khúc đó sẽ là ký ức lưu giữ về thời gian, về cuộc sống mà tác giả đã trải qua”

(Mặc Thế Nhân)

“Chúng ta không thể rung động trước một cái cũ, một cái đã quen thuộc. Chỉ có cái mới mới có thể tạo ra nhiều cảm xúc. Tình yêu cũng vậy. Nói như thế không có nghĩa là nghệ sĩ thì được quyền sống buông thả, phụ nghĩa phụ tình, làm khổ vợ con. Vợ tôi là một người vị tha và biết cảm thông, nhưng cá nhân tôi cũng luôn tự ý thức về điểm dừng của mình để không ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình”

(Mặc Thế Nhân)

Nhạc sĩ Mặc Thế Nhân thời trai trẻ  

  1. Nhạc sĩ Mặc Thế Nhân

Mặc Thế Nhân (tên thật là Phan Công Thiệt, 1939 – 2025) là nhạc sĩ tên tuổi tại miền Nam Việt-Nam trước năm 1975. Sẵn có năng khiếu và lòng yêu thích âm nhạc, ông tham gia chương trình văn nghệ học đường từ tuổi thiếu niên. Sau đó, ông được thọ giáo nhạc lý với các nhạc sĩ Thẩm Oánh, Hùng Lân, Nguyễn Quý Lãm, Nguyễn Cầu và Xuân Bình. Ông gia nhập ban nhạc Hoa Niên và cộng tác với ban đàn dây Xuân Bình phát thanh thường trực trên làn sóng điện. Sáng tác đầu tay của ông là “Trăng quê hương” (1958) và “Vui tàn ánh lửa” (1959).

Ông dùng nghệ danh Mặc Thế Nhân với hàm ý “góp chút mực cho đời” – chữ “mặc” trong Hán tự là “mực” – chứ không theo nghĩa đen “mặc kệ thế gian, bàng quan với sự đời” như nhiều người lầm tưởng và thêu dệt. Ngoài ra, ông còn lấy nghệ danh khác là Nhã Uyên, Trùng Dương, Đoàn Trung và Phan Trần (liên danh hai nhạc sĩ Mặc Thế Nhân và Nhật Ngân) để sáng tác. Thuở chập chững vào đời, ông làm ký giả ca nhạc, kịch trường cho các nhựt báo “Lẽ Sống” và tuần báo “Bình Dân” với bút danh Mộng Thu và Giang Ái Sĩ. Bên cạnh đó, nhạc sĩ Mặc Thế Nhân còn thành lập và điều khiển các “ban Văn nghệ Thông tin quận nhứt”, “ban Tổng hội sinh viên học sinh đô thành” và “ban Luân Vũ” để đi trình diễn lưu động yểm trợ cho các hoạt động của chánh quyền Việt-Nam Cộng Hòa. Khi đã có được chút ít tên tuổi trong làng ca nhạc, ông mở lớp dạy nhạc, đào tạo ca sĩ và thực hiện một số băng nhạc mang tên “Nhã Ca”. Ông còn tham gia trong ban văn nghệ thuộc lực lượng Hải Quân Việt-Nam Cộng Hòa với vai trò kịch sĩ và nhạc sĩ nhưng không mang cấp bậc nào nên tránh được cảnh bị tù đày sau ngày mất nước. Nhạc sĩ Mặc Thế Nhân sáng tác khá nhiều, hầu hết các nhạc phẩm của ông đều được phổ biến rộng rãi và được công chúng đón nhận cho đến ngày nay như “Cho vừa lòng em”, “Em về với người”, “Cho người vào cuộc chiến”, “Thủy thủ ca”, “Người em hải đảo”, “Sầu nhân thế”, “Một lần dang dở”, “Trả tôi về”, “Xích lại gần anh tí nữa”, “Mùa xuân cưới em”, “Chiều mưa anh đưa em về”, “Ru em tròn giấc ngủ”, “Điệu buồn của Thúy”, một loạt 10 bài “Tương tư”, v.v. Những bản tình ca của Mặc Thế Nhân là những chuyện tình có thật, dù đơn phương hay song phương nhưng đều xuất phát từ trái tim người nhạc sĩ nhạy cảm và dễ dàng rung động.

Xem thêm:   Cây tầm ma bá đạo

Vài năm nay được biết tin không vui từ quê nhà, nhạc sĩ Mặc Thế Nhân lâm trọng bịnh và ngày một thêm héo tàn. Giới yêu nhạc vẫn âm thầm cầu mong một phép lạ xuất hiện nhưng cũng đành bất lực trước quy luật đất trời, sanh ký tử quy. Vào một buổi chiều hè nắng đổ, ông lặng lẽ đi về với người trên một quê hương khó nghèo “trần ai hoen đôi mắt đỏ”.

Nhạc sĩ Mặc Thế Nhân ở tuổi trung niên

  1. Trả tôi về

Từ nơi phố thị phồn hoa, rực rỡ ánh đèn ngọn xanh, ngọn đỏ bỗng nghe thèm thuồng những ngày ấu thơ nơi vùng quê nghèo khó. Màu xanh thủy chung vẫn trải dài trên những đường quen, lối cũ. Nắng vàng vẫn lung linh và dòng sông xưa vẫn ngày đêm chảy xuôi theo con nước lớn. Ruộng lúa, cầu ao là chứng tích cho những ngày trẻ thơ ngây dại, chỉ biết đùa vui mà chưa hề nghĩ đến chuyện hơn thua hay hờn oán. Người mẹ hiền lúi cúi châm rơm khô vào bếp lửa. Mùi khói cay nồng hay cuộc sống bộn bề lo toan khiến cho mắt lệ cay nồng …

“Xin trả tôi về ngày xưa thơ mộng đó

Bên mái tranh chiều ngồi ngắm áng mây trôi

Mẹ quê đun bếp nghèo thơm mùi rơm qua khói mờ, ôi tình quê trìu mến

Xin trả tôi về miền quê hương nhỏ bé

Có lũy tre vàng, bờ lúa sát ven đê

Dòng sông trôi lững lờ rung vầng trăng soi bóng mờ, chuỗi ngày đẹp và thơ”

Thủ bút của nhạc sĩ Mặc Thế Nhân trên tập thơ “Cùng một kiếp người” xuất bản tại Sài-Gòn năm 2009

Cuộc đời là một dòng sông mải miết trôi nhưng chưa bao giờ phẳng lặng. Người với người từ bao giờ đã trở thành “thiên tai” để trần gian này quen thói lừa dối điêu ngoa, để ra cho người đi xa cứ hoen đôi mắt đỏ ..

Xem thêm:   Suy Đi Ngẫm Lại (09/04/2025)

“Trần ai hoen đôi mắt đỏ

Xót thương đầu môi, ngôn từ ôi nghe khắp trời

Cuộc trần gian quen lừa dối điêu ngoa

Còn được ai trong đời biết thương mình’

Nhạc sĩ Mặc Thế Nhân (bìa phải) trong quân phục của binh chủng hải quân Việt-Nam Cộng Hòa chụp với nhạc sĩ Anh Thy (bìa trái) và ca sĩ Bạch Lan Hương

Xin trả lại cho nhau những ngày thân ái cũ với cánh diều nó căng gió trên bầu trời thênh thang, cao rộng. Xin trả lại tiếng cười trong trẻo của ngày thơ, thuở chưa biết chuyện đau buồn cũng như lánh xa bao thói đời nhục, vinh, hư ảo trong một kiếp người ít vui, nhiều khổ …

“Xin trả tôi về thời xa xưa lộng gió

Bên khóm hoa cà rượt đuổi bướm tung tăng

Diều căng dây mái đình thương đầu xanh chưa biết buồn, chưa sầu, chưa hờn oán

Xin trả tôi về vùng thơ ngây thuở đó

Chưa biết ưu sầu vì kiếp sống bôn ba

Tìm xa bao thói đời: vinh, nhục, hư trong kiếp người, mờ lợi danh quyền thế”

Chiến cuộc lan tràn dẫn đến đỉnh cao là cuộc tấn công và tàn sát vào mùa Tết Mậu Thân năm 1968 gây ra bao đau thương, mất mát. Người dân phải vội vã lìa quê tìm nơi lánh nạn. Cuộc sống chen chúc, xô bồ nơi phố thị đã tạo nên sự lừa dối, oán hờn, điêu ngoa cộng với tình hình chính trị rối rắm vì tranh giành quyền lực giữa các phe phái. Giây phút ưu tư đó đã đưa tác giả trở về những ngày thanh bình nơi miền quê yêu dấu cũ. Hình ảnh êm đẹp ngày xa xưa như an ủi, xoa dịu một tâm hồn mẫn cảm để có thêm nghị lực bước tiếp trên đường đời vốn nhiều giông bão. Nhạc phẩm “Trả tôi về” cũng được lựa chọn cho chương trình phát thanh “Chiêu hồi” của chánh quyền Việt-Nam Cộng Hòa nhằm kêu gọi các cán binh Việt cộng gồm thành phần của Mặt trận giải phóng miền Nam và bộ đội miền Bắc lầm đường, lạc lối, buông súng ra hồi chánh, quay về với hàng ngũ quốc gia.

Nhạc phẩm “Trả tôi về” được thâu thanh vào dĩa hát Việt-Nam năm 1968 với tiếng hát ca sĩ Thiên Trang và tài hòa âm của nhạc sĩ Văn Giảng (Thông Đạt)

TV (10.08.2025)