Ở miền Nam, vào đầu những thập niên 70 của thế kỷ trước, rất nhiều người yêu thi ca và âm nhạc, hầu hết đều đã từng nghe về 2 bài hát “nói về người lính” với tâm trạng và cảm xúc trái ngược nhau, đó là ca khúc “Lính mà em” (Y Vân phổ thơ Lý Thụy Ý) và “Tưởng như còn người yêu” (Phạm Duy phổ thơ Lê Thị Ý).

Lý Thụy Ý
“Lính mà em”, bài thơ được sáng tác và đăng lần đầu trên Văn nghệ Tiền Phong vào năm 1967, của nữ thi sĩ Lý Thụy Ý, một cô gái tuổi mới vừa tròn đôi mươi, chắc hẳn cũng rất lắm mơ, nhiều mộng và cũng đang có người yêu là…lính? Với khung cảnh và xã hội miền Nam lúc bấy giờ ( năm 1967 và đổ về trước), tuy vẫn đang chiến tranh, người lính còn phải chịu nhiều gian khổ vất vả, song cũng chưa thật sự căng thẳng và ác liệt đến phải hy sinh nhiều xương máu như sau này. Người lính vẫn có thời gian về phép, thăm người yêu và dẫn người yêu đi dạo phố, vì thế, thơ Lý Thụy Ý còn tràn đầy và dạt dào cảm xúc của người đang yêu, dù có cách trở chia xa. Bên cạnh một người con trai, dù có trải qua phong sương đời lính, nhưng vẫn còn đó những nét dễ thương rất “học trò” và cũng rất… lính. Ta hãy nghe Lý Thụy Ý bộc bạch tâm trạng mình, cùng những nét “hờn dỗi, nũng nịu, đáng yêu”: “ Mình trách anh hay hồi âm thư trễ/ – Em đợi hoài em sẽ giận cho xem…” hay như: “Anh gửi về em mấy cành hoa dại/ -Để làm quà không về được Noel/ Không đi lễ nửa đêm cùng em gái...” và rồi: “Qua hành lang Eden ghi kỷ niệm/ Buổi chiều mưa hai đứa đứng bên thềm/ Anh che cho em khỏi ướt tà áo tím…”. Những câu thơ kể chuyện, trần tình, mang dấu ấn đặc biệt của người “em gái hậu phương” ở Sài Gòn, và hình ảnh “Ngày về phép anh hẹn mình dạo phố/ Tay chinh nhân đan năm ngón tay mềm”, rất dễ thương, nhưng cũng xa xót vì: “Mình xót xa đời anh nhiều gian khổ/ Anh cười buồn:- Khẽ nói: Lính mà em!”, để rồi em trách yêu anh: “Ghét anh ghê! Chỉ được tài biện hộ/ Làm “người ta” càng thương mến nhiều hơn” và thầm hứa: “ Nên xa lánh những cuộc vui thành phố/ Để nhớ một người hay nói: Lính mà em!”.
Toàn bài thơ để nói “về lính” nhưng không hề có súng, đạn hay khơi gợi “lòng căm thù giặc”, dù có hình ảnh “hành quân nằm sương gối súng” và “ trăng tiền đồn’ rồi “tay chinh nhân”, để người đọc hiểu thêm nỗi vất vả của đời trai, không cả sự “oán trách”, vì đó là tình yêu trai gái, cá nhân. Chút lãng mạn của “đi lễ Noel, dạo phố, ghé Eden…”, chỉ có ở người Sài Gòn, thêm “tà áo tím”, nét đặc trưng của người con gái Huế, mà cũng đúng thôi, vì Lý Thụy Ý, vốn quê ngoại ở Huế, điều đó có thể khẳng định thêm sự “chính danh” của nữ sĩ, khi sau này, có người “ngây ngô” gán ép bài thơ cho nhà thơ Phạm Tiến Duật, vốn là người lính “bên thắng cuộc”, song không thể có bút pháp hay nét đặc trưng, lãng mạn như người miền Nam ở Sài Gòn thuở ấy…
Cũng viết về lính, nhưng hình ảnh và cảm xúc hoàn toàn trái ngược với nữ thi sĩ Lý Thụy Ý là nữ thi sĩ Lê Thị Ý ở Pleiku, đó là bài thơ “Thương ca thứ nhất” hay còn gọi là “Ngày mai đi nhận xác chồng” và nhạc sĩ Phạm Duy khi phổ nhạc đã đổi tên là “Tưởng như còn người yêu”, một bài thơ “khóc chồng” đã tử trận trong cuộc chiến tranh bảo vệ nền tự do của miền Nam, khi mà cuộc chiến ngày càng lan rộng trở nên khốc liệt, nhất là sau Mậu Thân, năm 1968 đến “mùa hè đỏ lửa” năm 1972. Lê Thị Ý lúc đó, cũng đã ngoài 30 tuổi và còn độc thân! Theo lời kể của nữ thi sĩ, khi đó nhà bà ở gần một nhà xác dã chiến, nơi quàng tạm những thi hài tử sĩ được gói trong những tấm poncho, từ mặt trận đưa về, và nơi đây, hàng ngày có những người vợ lính, đến vật vã khóc than, tìm và nhận xác chồng. Những hình ảnh đau thương đó khiến bà như “nhập vào tâm trạng của những người vợ lính”, xúc cảm thành những vần thơ như chính “người yêu” hay “chồng mình” vừa hy sinh trong chiến trận. Bài thơ xuất hiện từ năm 1970, được viết chung trong một tập mang tựa đề là “Mười bài Thương ca” gồm có 10 bài thơ, bài thơ được đánh số thứ tự là “Thứ 1”. Sau khi bài thơ được Phạm Duy phổ nhạc, ca sĩ Julie Quang là người đầu tiên thể hiện ca khúc đã làm bàng hoàng, xúc động hàng triệu trái tim của những cô gái miền Nam có người yêu, hay chồng là người lính, bài thơ và ca khúc nhanh chóng được mọi người ghi chép và biết đến. Toàn bộ bài thơ là cảm xúc đau đớn, se sắt rất riêng tư của người vợ lính, không một “căm thù” hay “sắt máu” nào, chỉ là tình cảm đau đớn chia lìa của tình cảm vợ chồng, đôi lứa. Hãy nghe nhà thơ tâm sự: “Ngày mai đi nhận xác chồng/ Say đi để thấy mình không là mình...”, một cảm giác thiếu thốn, bơ vơ, đến bàng hoàng, xa xót: “Cao nguyên hoang lạnh ơ hờ/ Như môi thiếu phụ nhạt mờ dấu son/ Tình ta không thể vuông tròn/ Say đi mà tưởng như còn người yêu”. Cái cảm giác đau đớn, đến cảnh vật cũng the thắt, nhạt nhòa: “Phi cơ đáp xuống một chiều/ Khung mây bàng bạc mang nhiều xót xa”, rồi “Thân côi khép kín trong tà áo đen/ Chao ơi thèm nụ hôn quen/ Đêm đêm hẹn sẽ chong đèn đợi nhau”. Hình ảnh trước mắt là: “Chiếc quan tài phủ cờ màu/ Hằn lên ba vạch đỏ au phũ phàng...”. Khiến ta chợt lạnh mình, trước nỗi phũ phàng đau đớn: “Em không thấy được xác chàng/ Ai thêm lon giữa hai hàng nến trong?”. Hai từ “thêm lon”, tức là được “thăng quân hàm” là điều vui sướng, mơ ước của người lính, nhưng lại quá đau đớn trong trường hợp này? Hai câu kết bài thơ, không là lời than van, oán trách, nhưng khiến độc giả như lặng đi, cùng cúi đầu, chia sẻ một mất mát đến… ngỡ ngàng “Mùi hương cứ tưởng hơi chồng/ Nghĩa trang mà ngỡ như phòng riêng ai.”…Một cảm xúc dâng tràn, vỡ òa… đến nghẹn lòng!

Lê Thị Ý – nguồn người việt
Bài thơ và bài hát, có lúc bị cho là “phản chiến”, cấm phổ biến. Nhưng biết làm sao được, sự thật khốc liệt của chiến tranh, luôn làm chia cắt và đau lòng con người, nhất là người lính và thân nhân của họ, dẫu là ở phía nào: Người thua cuộc hay kẻ thắng cuộc…
Cả hai bài thơ là những cảm xúc rất thật và cũng rất là nhân văn, thuần hậu của hai người phụ nữ trùng tên, làm lay động và thức tỉnh những ai muốn gieo rắc chiến tranh trong xã hội con người.
Cuối cùng xin giới thiệu nguyên văn 2 bài thơ, cảm xúc của người miền Nam một thời đất nước còn khói lửa chiến tranh
Lính mà em
Mình trách anh hay hồi âm thư trễ
– Em đợi hoài! Em sẽ giận cho xem
Thư anh viết: – Bao giờ anh muốn thế
Hành quân hoài đấy chứ – Lính mà em!
Anh gởi về em mấy cành hoa dại:
– Để làm quà không về được Noel
Không đi lễ nửa đêm cùng em gái
Thôi đừng buồn anh nhé – Lính mà em!
Anh kể chuyện hành quân nằm sương gối súng
Trăng tiền đồn không đủ viết thư đêm
Nên thư cho em nét mờ, chữ vụng
– Hãy hiểu giùm anh nhé – Lính mà em!
Qua hành lang Eden ghi kỷ niệm
Buổi chiều mưa hai đứa đứng bên thềm
Anh che cho em khỏi ướt tà áo tím
– Anh quen rồi, không lạnh – Lính mà em!
Ngày về phép anh hẹn mình dạo phố
Tay chinh nhân đan năm ngón tay mềm
Mình xót xa đời anh nhiều gian khổ
Anh cười buồn khẽ nói: – Lính mà em!
Ghét anh ghê! Chỉ được tài biện hộ
Làm “người ta” càng thương mến nhiều thêm
Nên xa lánh những cuộc vui thành phố
Để nhớ một người hay nói LÍNH MÀ EM!
LÝ THỤY Ý
(Trích trong tập Khói lửa 20, xb năm 1970)
Bài thương ca thứ I:
ngày mai đi nhận xác chồng
Ngày mai đi nhận xác chồng
Say đi để thấy mình không là mình
Say đi cho rõ người tình
Cuồng si độ ấy hiển linh bây giờ
Cao nguyên hoang lạnh ơ hờ
Như môi thiếu phụ nhạt mờ dấu son
Tình ta không thể vuông tròn
Say đi mà tưởng như còn người yêu
Phi cơ đáp xuống một chiều
Khung mây bàng bạc mang nhiều xót xa
Dài hơi hát khúc thương ca
Thân côi khép kín trong tà áo đen
Chao ơi thèm nụ hôn quen
Ðêm đêm hẹn sẽ chong đèn chờ nhau
Chiếc quan tài phủ cờ màu
Hằn lên ba vạch đỏ au phũ phàng
Em không thấy được xác chàng
Ai thêm lon giữa hai hàng nến trong?
Mùi hương cứ tưởng hơi chồng
Nghĩa trang mà ngỡ như phòng riêng ai.
LÊ THỊ Ý