Thập niên 1830, khu phố cổ La-Tinh ở Paris là nơi quy tụ các nhà thơ, hoạ sĩ, nhạc sĩ, vũ công… Đa số trẻ. Hầu hết nghèo.
Một cảnh trong nhạc kịch “Rent”. Nguồn: Dallas Summer Musicals
Họ không có đời sống ổn định, không nhà cửa đàng hoàng. Nhưng bù lại, nếp sống phóng khoáng đầy nghệ sĩ tính của họ đã được nhà văn Henri Murger viết thành tiểu thuyết tựa đề “Scènes De La Vie Bohème”. Thật ra gọi nó là tiểu thuyết không chuẩn lắm, vì nó là các vở truyện ngắn rời rạc về một số nhân vật, được gom lại thành một tập, xuất bản năm 1851.
Chữ “la bohème” trong tiếng Pháp dùng để chỉ người Di-gan đến từ vùng Bohemia, nhiều người là vũ công, nhạc sĩ, văn sĩ và kể cả sinh viên (khu vực phố cổ La-Tinh có vài trường đại học nổi tiếng như Sorbonne). “La vie bohème” trở thành một thành ngữ mang ý nghĩa một cuộc sống bèo dạt bấp bênh, rày đây mai đó, chuộng sự tự do, không ưng bị gò bó, nghiêng về nghệ thuật, hy sinh vật chất…
Vài chục năm sau khi quyển sách ra đời, đại nhạc sĩ người Ý Giacomo Puccini dùng các nhân vật trong đó để liên kết họ lại thành một câu chuyện có đầu có đuôi. Kết quả là vở opera bất hủ mang tên “La Bohème”, một trong những nhạc kịch được trình diễn nhiều nhất xưa nay, được xem là kinh điển của opera Ý. Số phận của nó không khác mấy những tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng đi trước thời đại. Ra mắt khán giả lần đầu năm 1896, “La Bohème” bị giới phê bình chê lên chê xuống. Nhưng khán giả lại đi coi chật rạp hết đêm này sang đêm khác. Trong vòng một năm, nó đã được mang đi khắp thế giới và dịch ra ít nhất ba thứ tiếng.
Tờ bích chương đầu tiên của vở “La Bohème”, 1893. Nguồn: wikimedia.
Cốt truyện xoay quanh một cô thợ may tên Mimi và những người bạn nghệ sĩ của cô — Rodolfo chàng thi sĩ nghèo, Marcello chàng hoạ sĩ nghèo, Musetta nàng ca sĩ nghèo, Schaunard chàng nhạc sĩ nghèo, và Colline chàng triết gia … nghèo mạt rệp. Tuy sống thiếu thốn, không đủ tiền trả tiền nhà hay sưởi ấm, nhưng họ có tình bạn và tình yêu. Thời bấy giờ thế giới đang bị nạn dịch lao phổi hoành hành. Một số nhân vật trong truyện do vậy cũng là nạn nhân, tạo ra những tình huống bi ai làm khung sườn cho vở kịch. Qua nhiều cơn sóng gió, cuối cùng Mimi và Rodolfo cũng thổ lộ tình cảm họ có cho nhau. Nhưng đến lúc đó thì đã quá muộn. Mimi qua đời vì lao phổi. Màn hạ với tiếng rống bi thiết của Rodolfo, “Mimi!”
Cuối thập niên 1980, ở New York City có một chàng nhạc sĩ trẻ tên Jonathan Larson. Như nhiều nghệ sĩ trẻ trong thành phố, anh ta cũng rất … nghèo. Ban đêm làm nghề bồi bàn, ban ngày anh viết nhạc, soạn lời cho những vở kịch đang manh nha trong đầu mình. Larson bỏ ra nhiều năm trời soạn nhạc kịch đầu tay mang tên “Superbia”, dựa trên quyển truyện “1984” của George Orwell. Dù được nhiều nhà phê bình cho là có triển vọng, nhưng cuối cùng nó không được đoàn kịch nào mang ra diễn.
Thất vọng ê chề, Larson soạn một vở nhạc kịch tự sự mang tên “Tick, Tick… Boom!” Vở này chủ yếu là một cuộc độc thoại. Nhân vật chính là Jonathan Larson, kể về cuộc đời một người nhạc sĩ nghèo đi tìm thành công trên Ðại-lộ Broadway. Nó vừa được Netflix làm thành phim, với Andrew Garfield (“The Amazing Spiderman” 1 & 2) trong vai Larson, đạo diễn bởi Lin-Manuel Miranda (tác giả nhạc kịch “Hamilton” đình đám). Phim này vừa thắng giải Golden Globe, và Andrew Garfield được trao tặng Quả Cầu Vàng giải Nam Diễn Viên xuất sắc nhất thuộc thể loại Nhạc kịch và Hài hước. Mới đây phim này và Andrew Garfield cũng được đề cử giải Oscar.
Mimi (Aiyana Smash) và Roger (Coleman Cummings) trong “Rent”. Nguồn: Dallas Summer Musicals
Năm 1988, kịch tác gia Billy Aronson nảy ra ý tưởng soạn một vở nhạc kịch dựa theo “La Bohème” của Puccini, nhưng đặt bối cảnh tại New York City thay vì Paris. Qua một người quen, Aronson liên kết với Larson để soạn phần nhạc. Không lâu sau đó Larson xin phép Aronson dùng nó để biến thành một vở nhạc kịch riêng của mình mang tên “Rent”. Aronson đồng thuận, với điều kiện nếu vở này lên được Broadway thì Aronson cũng được chia phần.
Vận dụng tất cả kinh nghiệm thâu lượm được từ những tác phẩm trước của mình, Larson soạn vở “Rent”. Anh chọn khu vực East Side của New York City làm bối cảnh, nơi quy tụ nhiều những nghệ sĩ nghèo của thành phố, không khác gì mấy Quartier Latin của Paris hơn một trăm năm trước. Nhân vật chính vẫn mang tên Mimi như trong “La Bohème.” Các nhân vật khác được đổi tên cho giống Mỹ hơn. Chẳng hạn như Rodolfo trở thành Roger, Marcello thành Mark Cohen, Musetta thành Maureen v.v.
Thời bấy giờ nạn dịch HIV đang hoành hành, và cộng đồng nghệ sĩ ở New York bị ảnh hưởng khá nặng. Larson dùng bệnh AIDS thế cho lao phổi và đổi vài nhân vật của Puccini thành đồng tính để phù hợp với tình hình lúc bấy giờ. Mấy phiên bản đầu của “Rent” khi đem ra diễn thử tại các trại workshop của New York bị phê là quá rườm rà và lộn xộn, tưởng đâu cũng sẽ bị loại như “Superbia” trước kia.
Javon King trong vai Angel Schunard. Nguồn: Dallas Summer Musicals.
Cũng nên nhắc lại rằng các vở nhạc kịch Broadway thường đều trải qua phần “phúc khảo” khá khắc nghiệt. Trước hết là giai đoạn đọc và hát trơn, với một vài cây đàn, trong các trại workshop, nơi các nhà đầu tư cũng như dân trong nghề đến nghe để xem có triển vọng hay không. Thường thì một vở kịch phải được sửa đi sửa lại vài lần (hay nhiều lần) trước khi có người chịu bỏ tiền ra mướn đạo diễn và thuê nhạc công để dàn dựng.
Kế đến là giai đoạn Off Broadway, tức là các rạp nhỏ, chỉ vài trăm chỗ ngồi. Ðây là chỗ cho công chúng đi xem và đánh giá vở kịch (bằng cách mua vé). Nếu thấy ăn khách, vở nhạc kịch mới được mang lên Broadway — địa vị cao nhất một vở nhạc kịch có thể đạt được.
May sao “Rent” vượt qua ải đầu tiên tại New York Theatre Workshop khá suôn sẻ và được đài thọ để dựng Off Broadway. Dự kiến ban đầu là vở nhạc kịch sẽ mở màn đúng ngày sinh nhật thứ 36 của anh — 4/2/1996. Nhưng mười ngày trước đó, Jonathan Larson đột ngột qua đời vì bị đứt mạch máu não. Ít hôm trước anh đã có triệu chứng đau ngực, chóng mặt và khó thở, nhưng khi đi bác sĩ khám họ lại cho là anh chỉ bị cúm bình thường. Chứ nếu tình trạng mạch máu não được phát hiện, rất có thể Larson đã được điều trị kịp thời.
Andrew Garfield thủ vai Jonathan Larson trong phim “Tick, Tick… Boom!” Nguồn: Netflix.
“Rent” được công chúng tán thưởng nhiệt liệt trên Off Broadway, đêm nào cũng cháy vé. Nó còn mang đến cho Jonathan Larson giải Pulitzer Prize về Kịch Bản sau khi anh mất. Và một khi được dựng trên Broadway, “Rent” đã đoạt 3 giải Tony danh giá nhất là Best Musical (nhạc kịch), Best Book (kịch bản) và Best Score (âm nhạc). Nó hiện đứng hạng thứ 11 trong số các nhạc kịch diễn lâu nhất trên Broadway — từ tháng Tư 1996 cho đến tháng Chín 2008, với hơn 5,000 suất diễn, thâu vào trên $200 triệu tiền vé.
Với sự thành công đó, gia đình và bạn bè của anh đã lập ra quỹ tương trợ Jonathan Larson Performing Arts Foundation để giúp đỡ các nghệ sĩ trẻ có khả năng nhưng cần được tài trợ, nhằm khuyến khích họ phát huy môn nghệ thuật nhạc kịch. Năm 2003 toàn bộ các tác phẩm của Jonathan Larson được trao tặng cho Thư-Viện Quốc-Hội (Library of Congress), nhờ đó công chúng đã được tiếp cận với vô số nhạc phẩm đủ thể loại anh từng sáng tác, kể cả nhạc cho chương trình TV thiếu nhi “Sesame Street” trên đài PBS.
Ngày nay bản nhạc chủ lực trong “Rent” mang tựa đề “Seasons of Love” đã trở thành một ca khúc kinh điển không thua gì “I Don’t Know How To Love Him” của “Jesus Christ Superstar”. Và phim “Tick, Tick… Boom!” rồi đây cũng sẽ là một nghệ phẩm quan trọng liên quan đến cuộc đời của thiên tài nhạc kịch Jonathan Larson.
IB
Cựu Biên Tập Viên báo Trẻ; chuyên viết về Lịch sử, Âm nhạc, Nghệ thuật, Something/Anything. Từng làm kỹ sư điện toán. Hiện cư ngụ trong vùng Dallas.