TÓm tẮt kỲ 1: Trần Thị Như Hoài An, một phụ nữ thành công trong ngành Tài chánh ở Nữu Ước, quay trở về Texas sống bên cạnh cha mẹ, có dịp quan sát đời sống và nghề dạy học của cha mình, một nhà giáo Việt Nam tỵ nạn cộng sản. Sau khi nhìn cha già  trong buổi dạy học, tối hôm ấy, cô Như Hoài An thao thức không ngủ được. Nàng bắt đầu nhớ lại kỷ niệm của 2 cha con khi ông mới vừa du học ở Pháp về.

Kỳ 2

Ðêm hôm ấy, tôi, Trần Thị Như Hoài An tức Ann Trần, con gái đầu lòng của một ông giáo Việt Nam, trằn trọc không ngủ được.

Tôi nhớ đến một vật sở hữu bố tôi đã có và đã mất.

Tôi nhớ đến chiếc phong cầm của bố tôi.

Như tôi đã nói, bố tôi có tính quen sưu tầm, lưu trữ, ít khi phế thải một vật sở hữu nào. Bằng chứng là ông vẫn giữ cái cặp da đầu tiên trong công vụ giáo dục ông mua tại Sàigòn hồi cuối năm 1955 trước khi lên đường ra miền Trung dạy học, nhất là cái bộ đồ “bốn túi” kiểu “ký giả” ông mang theo từ 1975. Ðó là cái “mốt” một thời của bố tôi.. Nhiều lần, lũ con phải la lối đòi tẩy chay bố để ông khỏi lôi bộ đồ cổ lỗ sĩ ra mặc.

Giữa đêm tối, tôi chợt hiểu ra. Tôi hiểu rồi, hiểu cái mất mát của bố tôi. Cái đau khổ mơ hồ của tôi hôm ấy bắt đầu từ hình ảnh chiếc phong cầm thời thơ ấu. CHIẾC PHONG CẦM CỦA BỐ TÔI. Khi tôi bắt đầu có trí nhớ thì bố tôi đã có chiếc phong cầm ấy. Bố tôi mất nó vào năm 1963, trong những ngày Huế sôi nổi xuống đường.

Ðầu năm 1963, tôi lên sáu, thì bố tôi từ Pháp về. Ông đi du học từ hồi tôi ba tuổi. Không có bố bên cạnh, tôi sống trong không khí quây quần của họ ngoại. Ngày ông về nước, ông là một hình ảnh xa lạ.

Ông mảnh khảnh, mặt hơi tư lự. Tôi nhìn ông mà hơi sờ sợ. Những ngày ở Pháp về, ông không vui, có lẽ vì thời cuộc. Con bé Hoài An ở tuổi thơ dại đó, bèn bắt đầu một công trình nghiên cứu quy mô. Tôi quyết định nghiên cứu bố tôi. Việc đầu tiên tôi nhận xét là những câu nói của người nhà. Tỉ dụ, bà vú bảo: “Ông Tây quá,” “Tối ngày ông nghe dĩa hát.” Những tiếng hát trong vắt, ngôn ngữ xa lạ. Sau này lớn lên, qua Mỹ, tôi mới biết đó là dĩa hát nhạc kịch My Fair Lady ông mua từ Luân Ðôn.

Thời gian sinh sống ở Nữu Ước, tôi vẫn luôn tự hỏi biết đâu sự say mê âm nhạc và sân khấu của tôi đã bắt đầu với tiếng ca trong vắt từ cái dĩa hát của bố tôi ngày đó.

I could have sung all night

I could have sung all night

All night

Và tiếng hát vút lên, ngân dài, cao ngất:

All night…

Trong dãy phố Nguyễn Trường Tộ ở xứ Huế êm đềm, chỉ riêng nhà tôi là có cái dĩa hát quay vòng vòng. Bố tôi cầm cái cần nhẹ nhàng đặt lên dĩa hát, rồi cái dĩa quay vòng vòng, và tiếng hát xa lạ trong vắt bay ra từ cái hộp. Tôi nghĩ theo bà vú: “Sao mà nó Tây thế!”

Xem thêm:   Tuyết lạnh bên trời

Ngoài cái máy hát, bà vú còn nói bố tôi mặc “áo tơi” đi trong nhà. Tôi đi theo nhìn bố tôi, thấy bà vú nói đúng. Bố tôi không mặc bà ba trắng có khuy cài như ông ngoại tôi. Bố tôi mặc cái áo thùng thình cột dây ngang lưng, tương tự như cái áo đầm dài đến chân (sau này tôi mới biết đó là cái áo robe de chambre). Bà vú bảo: “Tây ơi là Tây! Ôn ở lỗ mặc áo tơi đi trong nhà!” Tôi cũng muốn bắt chước bố tôi “mặc áo tơi” đi vòng vòng trong nhà như thế.  Bà vú bảo: “Hoài An ơi, dị lắm. Mi chớ bao giờ bắt chước cha mi!”

Thắm Nguyễn

Sau đó bố tôi còn vẽ tranh, ông hay đi vẽ với họa sĩ Hiếu Ðệ. Ông này hay xoa đầu tôi rất lâu. Tôi còn nhớ ông ta có cặp mắt kính rất dày. Trong những tranh của bố tôi, có một tấm vẽ cái thuyền treo ngược. Tôi không hiểu tại sao cái thuyền lại treo ngược, làm sao chèo được trong những ngày nước dâng ngập Ðập Ðá hoặc bão lụt ở miền Trung? Tôi hỏi mẹ tôi.  Mẹ tôi cũng không hiểu bố tôi vẽ cái gì. Chỉ có bức tranh Thành Nội có rêu xanh, tường nâu, và hoa sen hồng là tôi thấy giống ngoài đời.  Những hình ảnh của Ngõ Chi Lăng, Huế, gần Thành Nội.

Cứ như vậy, con bé Hoài An, lên sáu, nghếch mắt nhìn người bố xa lạ, quan sát và suy tư.

Rồi bố tôi đem sách Pháp ra dạy tôi học: “C’est une chaise… C’est le chèvre de Mr. Seguin…” Sao mà chán quá! Thêm cái màn phải dậy sớm, tắm rửa, thay áo, uống sữa (một việc mà tôi rất ghét), rồi leo lên xe đạp cho bố tôi đèo đến trường Jeanne d’Arc tập đàn. Tập đàn thì cũng được đi, nhưng tôi không muốn tập theo Méthode de Rose. Tôi muốn đánh mò bài “Những Ðồi Hoa Sim, ôi những đồi hoa sim tím chiều hoang biền biệt” theo kiểu Phương Dung, con nhạn trắng Gò Công. Sơ Thanh Tâm mà biết được sẽ khẻ tay tôi đau điếng. Tôi không biết thở than với ai về những cái khó chịu mà bố tôi bắt tôi phải trải qua.

Tóm lại sự có mặt của bố tôi làm cuộc đời tôi bị xáo trộn. Tôi không còn được ngủ chung giường với mẹ tôi. Tôi phải ngủ giường ngoài, loại giường gỗ dành cho con nít. Tôi van vái Trời Phật cho ông đi du học thêm một lần nữa thì đỡ quá! Van vái xong, tôi rón rén ghé tai vào cửa phòng nghe bố mẹ tôi nói chuyện. Bố tôi hay độc thoại nói “ràm ràm.” Mẹ tôi ngoan ngoãn ngồi nghe như tín đồ nghe kinh. Bà vú bảo, “Giống người điên. Ôn học giỏi quá, hóa điên!”

Xem thêm:   Vượt biên đường bộ

Sau này khi lớn lên, được yêu và mong mỏi được người yêu thông hiểu, tôi mới cảm nhận được thế nào là nỗi buồn khi phải nói một mình, và khi phải nghe người khác nói vì bổn phận.. Ðể thương xót cho cuộc tình và hôn nhân của bố mẹ tôi. Một người nói, một người nghe. Phải chi cứ như người từ hành tinh khác đến, truyền thông bằng tư tưởng. Nhìn bằng mắt, hiểu nhau ngay. Thì tình trường đỡ đau buồn, chật vật. Và nhân duyên đỡ cay đắng, đoạn trường vì người ta không hiểu được nhau.

Thế nhưng tuổi lên sáu bé dại, tôi thấy chuyện bố tôi “đọc kinh” cho mẹ tôi nghe một chiều là điều vừa kỳ quặc, vừa hào hứng.

Có lần tôi nghe bố tôi đọc một đoạn văn cho mẹ tôi nghe, tôi thấy rất lạ lùng, và kết luận chắc là bố tôi điên đúng như bà vú nói. Tôi kể lại với bà vú, bố tôi nói gì về con lừa, về vũ trụ có đồ đạc lổn ngổn. Bà vú lè lưỡi, khuyên tôi sau lớn lo lấy chồng đừng có học giỏi làm chi. Và nhất là chớ có đi Tây. Sẽ điên giống bố tôi.

Ba mươi bốn năm sau, ngồi ở Nữu Ước, nhìn ra vòm trời đầy ánh điện, tôi đọc lại một đoạn văn của bố tôi viết ở Huế nhân dịp ông xem tranh của họa sĩ Ðinh Cường. Một vài năm trước biến cố 1975, ông đem bài bình luận ấy quay ronéo cho sinh viên Văn Khoa Sài Gòn dịch ra tiếng Anh. Thời thơ ấu hiện về, tôi mới nhớ ra đó là đoạn văn tôi đã nghe lóm ngày xưa qua khung cửa phòng của bố mẹ tôi:

“Trong vũ trụ, súc vật, đồ đạc, người ngợm lổn ngổn, những võ công thức cứng ngắc, rỗng tuếch, đập bửa ra toàn chất liệu chết, ù lì, đặc sệt; những cái đầu gỗ lọc cọc múa nhảy trên đường, những tường thành góc cạnh lì lì chắn lối; những xe cộ, bàn ghế, cây khô tĩnh vật đắp ụ ngõ xóm; đất rác từng đống sát mũi cửa nhà, bịt kín công lộ. Những cái cứng ngắc, lổn ngổn, trì độn ấy làm nghệ sĩ đi một bước là đụng, là đá, là vấp chạm đủ mọi chướng vật. Ấy là cái thế giới hình thể hiện thực bủa kín nghệ sĩ, muốn bò-sát-hóa thân phận nghệ sĩ. Nó bảo: mày làm con lừa kéo gỗ đi. Nó hô: cúi đầu xuống, uốn đuôi lên. Thế giới hình thể hiện thực vong thân nghệ sĩ bằng đủ kiểu phỉnh phờ. Nó chắp cánh gỗ cho nghệ sĩ bay vào thế giới lãng mạn, trăng sao mây nước. Nó gạt nghệ sĩ vào vũ trụ ấn tượng mù, lung linh bàng bạc. Rồi, rất biện chứng, nó đá đít những tâm hồn nghệ sĩ đích thực…

Tôi không tự hỏi Ðinh Cường đã đi vào trừu tượng thế nào ? Cái đó chẳng quan hệ gì đến người xem tranh, dĩ nhiên. Sự hiện hữu của trừu tượng Ðinh Cường, tôi sẵn nhìn nó trong hình ảnh một bứt phá…”

oOo

Xem thêm:   Dinh Độc Lập biểu tượng tinh thần quốc gia

Ðọc đoạn văn của bố tôi viết trên ba thập niên, tôi giật mình sợ hãi. Tôi không nghĩ là bố tôi viết về tranh Ðinh Cường. Mà ông viết về chính mình. Về con mắt nhìn tranh. Ông đã thay tôi viết về thân phận con người: Cá tính trí thức và nghệ sĩ trong một môi trường tàn bạo đòi hỏi sự bứt phá. Dường như có sự tiên tri. Ðoạn văn ngắn này áp dụng được vào khung cảnh của một Sài Gòn nhân mãn quay cuồng trong kinh-tế-thị-trường-xã-hội-chủ-nghĩa ngày nay, vào ngay cả cái thành phố Nữu Ước này trước thế kỷ hai mươi mốt. Cái khoảng cách khác biệt giữa Cộng Sản và Tư Bản, giữa Mỹ và Á, trong kỷ nguyên mới (New Age) đã hoàn toàn biến mất trong đoạn văn của bố tôi. Cả hai bên của thái cực đều có những con lừa kéo gỗ và sự bứt phá trong tâm hồn của nghệ sĩ trước môi trường và sức ép chung quanh.

Rồi tôi rùng mình tự hỏi: năm 1965, khi viết lên những dòng trên, bố tôi có biết chăng đứa con gái nhỏ đầu lòng của mình, trên ba mươi năm sau, cảm thấy nó là con lừa trong vòng quay tới tấp của xã hội Mỹ. Goldman Sachs đã vô hiệu hóa những ngón tay của tôi, không thả cho ngón tay tôi mềm mại trở về với phím trắng dương cầm. Ở tuổi gần bốn mươi, tôi mong cầm bút để thay thế phím trắng dương cầm. Tôi ngậm ngùi hiểu ra rằng trong căn bản bố con tôi giống nhau. Chúng tôi, qua hai bối cảnh, hai thời điểm khác nhau, ở tuổi trung niên đều mang tâm trạng của những con lừa kéo gỗ.

Thế nhưng, trong những ngày tháng ở Huế năm 1965 khi bố tôi viết những dòng trên thì bố con tôi không nói chuyện với nhau. Bố mẹ Việt Nam thời đó không đến gần con nít, tối tối phải đọc truyện cho con nghe như bố mẹ ở Mỹ thời nay. Sự tương đồng về tâm trạng con lừa, về thân phận con người và kiếp lưu đày của tâm hồn nghệ sĩ, phải ba mươi bốn năm sau tôi mới nhận thấy.

Tuy nhiên, tôi xin tâm sự với độc giả một chi tiết rất quan trọng trong quãng đời thơ ấu của tôi. Khoảng thời gian 1964-65, ở phố Nguyễn Trường Tộ, Huế, bố con tôi có nói chuyện với nhau. Một cuộc nói chuyện thầm lặng qua chiếc phong cầm. Tiếng đàn phong cầm của bố tôi. Công cuộc nghiên cứu về người bố của bé Hoài An có khúc này là thú vị nhất.

(xem tiếp kỳ 3)