Nguyễn Mạnh Tuân phóng tác
Thế ra tôi chưa kể cho các cậu câu chuyện người đeo dao quắm nhỉ!… Để tôi nói cho nghe …
Ông Phát vừa vỗ vai tôi vừa gật gù với mấy người ngồi xung quanh. Ông là nhà khảo cổ nổi tiếng, lại vừa đi xa về, nên chúng tôi lại thăm, luôn tiện xem những cổ vật của miền xa lạ.
– Lần đó tôi đi Nam Mỹ, ngược dòng sông A-ma-dôn, khảo cứu về mấy di tích của người da đỏ còn sót lại trong vùng cao nguyên. Công việc không vất vả mấy, vì nhóm thổ dân gần như bị diệt chủng này, tiếng vậy mà hiếu khách lắm. Những ngày có chúng tôi ở đó là những ngày no ấm cho bộ lạc; cá sấu, rắn, trăn, heo rừng … thiếu gì, nhưng họ phải khó khăn vất vả mới săn được một con, trong lúc đó chỉ vài phát súng là khuân không hết.
Sau 4 tháng trời đào, bới, lục lạo, chúng tôi có được mớ tài liệu khá dồi dào. Nhóm thổ dân chọn 10 trai tráng khiêng giúp các vật dụng qua cánh rừng trùng điệp chạy theo dọc sông.
Thực là vất vả!… Phần vì đồ đạc kềnh càng, phần vì sau mùa mưa, cây cối mọc nhanh đến độ lấp kín các lối mòn… Thành thử phải vừa đi vừa mở đường. Giá không có toán thổ dân, chắc tôi bỏ lại hết … Lão Dốc dẫn đường đã cố gắng hết sức mà mỗi ngày cũng chỉ vượt nổi mươi cây số rừng là nhiều. Lão bảo tôi:
– Thầy cho xuôi về phía Nam đi!… Xa một chút nhưng có con đường vòng của cánh phu làm trong mỏ kim cương, dễ đi lắm!
Tôi nhẩm tính, vòng quanh như vậy tôi mất hơn tuần lễ, nhưng biết sao!
Lão nói đúng; chỉ vài bữa sau, chúng tôi tìm được lối mòn của đám phu. Cũng chẳng rộng bao nhiêu, nhưng quang đãng, có thể đi những chặng đường dài gấp đôi, gấp ba.
Sáng hôm đó, vừa đi được một lát, thì lão Dốc ra hiệu cho cả đoàn dừng lại. Lão vẫy tôi:
– Có người thầy ạ!… Họ sắp tới kìa!
Tôi đã tưởng bộ lạc thổ dân nào muốn gây chuyện hay đổi chác gì đây … Thực ra tôi không ngại, vì nếu dân da đỏ tính làm hại ai, chẳng bao giờ họ để người nào thấy: họ núp thật kín trong đám cành lá um tùm, phóng vài mũi tên thuốc là xong … Các cậu chưa biết cái lợi hại của thứ thuốc độc ghê gớm này, nên không ngán… Những người đi rừng như tôi thì hiểu quá rồi: người trúng tên chỉ vài phút sau là mê đi, máu đông lại, chết tốt!… Nhưng lần này không phải dân da đỏ mà là một gã da trắng hẳn hoi.
Gã cao như sếu vườn, gầy đét, mặt quắt queo chỉ còn đôi mắt có tròng xanh lè còn đôi chút linh động. Nước da rám nắng đỏ sậm màu đồng điếu chẳng khác da thổ dân mấy tí. Giá không có đôi mắt xanh và thân hình cao quá khổ của y, ai cũng ngỡ y thuộc bộ lạc da đỏ đâu đây.
Có lẽ con người văn minh này lạc lõng nhiều ngày trong rừng sao đó, nên trông thảm hại lạ. Bộ quần áo vải vàng mặc trên người bị gai góc cào rách bươm: cả mảng vai với bắp chân phơi ra nắng, đen thui. Dưới chân gã còn được đôi giày da há mõm, vá víu bằng sợi gai. Dấu vết còn lại của thời dư dả chỉ có chiếc thắt lưng to bản với lưỡi dao quắm, thứ dao đi rừng, mũi cong, cán gỗ, trong chiếc bao da, lủng lẳng bên sườn. Tôi nghĩ chừng gã có hành lý đâu đó; nhưng không, đồ nghề đi rừng của gã có vậy.
Gã theo lão Dốc lại gần tôi:
– Thầy cho tôi nhập bọn … Tôi đi với 3 người nữa vào rừng kiếm cao su … Các bạn tôi bị thổ dân giết sạch … mình tôi thoát chết, lạc trong rừng cả tuần nay… Tôi làm phu khuân vác được mà … Tôi cũng xuôi về Nam … Thầy giúp cho.
Tôi chẳng nỡ từ chối, vả lại phái đoàn còn cần người tải đồ. Bắt đầu từ bữa đó, gã trở thành nhân viên của đoàn. Tôi cũng thương tình, giao cho gã gói đồ nhẹ khoảng non 20 ký, lấy lệ, để gã khỏi có mặc cảm là một miệng ăn vô ích!
–oOo–
Tính nết gã hơi kỳ: vừa lầm lì vừa khó khăn, chẳng trò chuyện với ai, cũng chẳng muốn ai tới gần.
Chiều chiều, tới chỗ nghỉ chân, gã lẳng lặng đặt gói xuống gốc cây, lãnh phần ăn, rồi ngồi một xó, câm nín như đứa trẻ biết lỗi.
Nhưng cử chỉ đặc biệt của gã trước khi nằm ngủ mới khiến chúng tôi tức cười; sau khi ngả lưng nằm dài trên mảnh chiếu cói, gã tháo dây lưng, nâng con dao quắm lên ngang mặt; gã không rút dao ra, chỉ ngắm nghía chiếc bao dao bằng da trâu cứng nhắc, có chỗ đã sờn, dăn dúm như mảnh giẻ nát. Tôi nghĩ chừng gã nhặt được ở đâu thì phải … Thứ vỏ dao cũ kỹ như vậy chẳng mấy ai thèm dùng. Thế mà gã trân trọng mới kỳ!
Gã ngắm nghía, vuốt ve, nâng niu như gìn giữ thứ bảo vật không bằng. Cứ nhìn mắt gã đủ rõ: cặp mắt lờ đờ, gần như chẳng chú ý tới gì, chỉ lóe sáng khi gã trìu mến nắm con dao quắm trong tay… Mỗi khi thấy chúng tôi nhìn về phía mình, gã lẳng lặng đặt bao dao với thắt lưng làm chiếc gối tạm bợ, rồi thu hình lại, đánh một giấc đến sáng.
Ngoài cái tật tức cười đó, tôi phải nhận gã là người làm ăn chu đáo, chẳng để ai trách móc; lại biết điều, không nửa lời nặng nhẹ với bất cứ ai. Dần dà, chúng tôi cũng quên đi hành động kỳ dị của gã, chỉ tặng gã biệt hiệu “Tư dao quắm”, thế thôi.
Chúng tôi loanh quanh trong rừng non tháng trời, giá không có tay dẫn đường thành thạo như lão Dốc, chắc khó lòng ra khỏi ngàn cây mênh mông như biển vùng A-ma-dôn.
Bữa đó như thường lệ, “Tư dao quắm” vừa ngả lưng đã lẩm nhẩm “khấn khứa” với chiếc bao da. Nhưng tôi chợt thấy gã nhỏm dậy, nhảy lùi về phía sau, mắt trừng trừng nhìn vào bụi gai trước mặt. Cái hốt hoảng tột độ của gã khiến tôi và lão Dốc sững sờ … Hiển nhiên phải có chuyện gì ghê gớm lắm.
Chúng tôi theo tia mắt gã và cùng giật thót người… Thì ra có con rắn trong bụi gai … Con rắn từ từ nhô đầu lên, chiếc đầu đen ngòm điểm chấm vài đốm vàng dưới cổ … Lão Dốc thì thào như hết hơi:
– Măm-ba… Con măm-ba đấy … Chết rồi!
Tôi có nghe nói thứ rắn kinh khủng này. Có 2 loại, măm-ba khoang và măm-ba đen, cả 2 thứ độc tàn nhẫn, nhất là loại đen … Nọc nó có thể là chết đứ đừ con ngựa vằn trong nửa phút, ghê chưa!
Đã vậy nó còn nổi tiếng dữ dằn… Rắn thường gặp người đã không lẩn tránh, trái lại, nó còn tìm người mà đuổi mới đáng sợ.
Đầu con rắn mỗi lúc một nhô cao thêm; tôi có cảm tưởng nó dựng thẳng mình lên chắc … Khúc mình đen láy, phớt ánh biêng biếc của kim loại, lắc lư như lên đồng… Mẫu lưỡi dài, chẻ đôi, thò ra thụt vào dọa nạt … Chẳng cứ “Tư dao quắm”, người gan dạ nhất gặp cảnh đó cũng sợ nhũn người …
Lão Dốc thét lên:
– Rút dao ra … Tư! Coi chừng …
Tôi cũng nghĩ như lão: Tư có con dao quắm trên tay mà gã lia nhanh một dao là xong. Tôi nhắc gã:
– Phạt cho nó một nhát ngang cổ … Nhanh lên!
Lúc đó gã mới nhớ ra thứ khí giới tự vệ hữu hiệu của mình … Bàn tay gân guốc ghì lấy chiếc cán gỗ nhẵn bóng … Tôi tưởng chừng lưỡi thép sẽ lia vào con rắn tức khắc … Ai dè gã hành động như người bệnh nặng không muốn hao phí chút sức lực còn lại; gã thẫn thờ buông tay, đứng đờ ra đó!
Trong lúc ấy, nhịp lắc lư của con rắn đen nhanh dần … Như vậy là nó mổ tới nơi … Cái chết của “Tư dao quắm” coi như không thể tránh được. Nhưng đúng vào lúc con vật lao mình đi thì có tiếng súng nổ ròn … Qua làn khói xanh mờ nhạt, khét lẹt, tôi thấy rõ thân hình dài thượt của con măm-ba bật lên như lò xo rồi rớt xuống ngay chân “Tư dao quắm”, chiếc đầu dẹp lép, nát bấy…
Tư như người ngủ mê, lừng khừng tiến lại bên lão Dốc, đăm đăm nhìn khẩu súng còn bốc khói trong tay lão. Tôi thấy gã lí nhí cám ơn thì phải… Nhưng chỉ vài giây sau, gã đã quay lại chỗ cũ, nằm co quắp trên manh chiếu.
Người dẫn đường đứng tuổi khẽ lắc đầu, nói với tôi:
– Dễ gã khùng mất …
Tôi cũng nghĩ vậy, chuyến đụng độ da đỏ trong rừng vẫn ảnh hưởng tai hại đến thần kinh gã cho tới giờ.
–oOo–
Nhưng chỉ vài bữa sau, chẳng ai buồn để ý tới chuyện vặt đó. Chúng tôi đã tới đồn biên giới; qua địa đầu này là khu vực văn minh rồi!
Nhóm nhân viên quan thuế đối với tôi nhã nhặn, nhưng cương quyết lắm. Khi thấy tôi có đủ giấy tờ hợp pháp, vị sĩ quan chỉ huy chỉ coi sơ hành lý rồi nói:
– Ông vui lòng thứ lỗi… Chúng tôi phải kỹ càng đôi chút vì có tin nhiều tay buôn lậu vàng hay kim cương chuyển hàng qua lối này… Trường hợp của các nhà khảo cổ lại khác, xin ông cứ tự nhiên …
Qua hàng rào quan thuế, chúng tôi chỉ còn đoạn đường ngắn nữa là xong. 3 bữa sau, tôi thở phào, nhẹ nhõm. Các gói hành lý nặng được gởi theo xe lửa, còn phu phen đâu về đấy. Tôi tặng thêm mỗi người chút tiền thưởng. “Tư dao quắm” cám ơn tôi, nhưng không nhận tiền. Biết tính nết kỳ quặc của gã, tôi cũng chẳng bận tâm nữa. Hồi sau này gã đã cởi mở hơn, nhưng vẫn còn cái tật khấn khứa bao dao mỗi khi đi nằm. Kể cũng lạ!
Tôi giữ lão Dốc ở lại thành phố xả hơi vài bữa.
Sau những ngày gối đất nằm sương chốn rừng xanh núi đỏ, ánh sáng đô thành trở nên vô cùng hấp dẫn đối với hai đứa chúng tôi.
Chiều hôm đó lão Dốc và tôi ngồi hóng mát ngoài hiên một khách sạn ven biển. Gió lồng lộng ngoài khơi, dăm cánh buồm trắng lững lờ giữa đám hải âu … Lão Dốc đang nằm trên ghế mây, chợt nhỏm dậy, trỏ tay xuống đường:
– Ô!… Coi kìa, thầy Hai… Đúng hắn rồi … “Tư dao quắm” đó!
Tôi nhìn ra … Đúng “Tư dao quắm”, nhưng là một Tư đỏm dáng lịch sự với bộ đồ lớn trắng bong, may bằng thứ hàng đắt tiền, chiếc nón rơm rộng vành và đôi giày hai màu hợp thời trang… Thêm vào đó còn điếu xì gà bên mép và cặp kính mát màu lơ … Vẻ rừng rú, đần độn trên người hắn biến đâu hết … Dưới mắt chúng tôi chỉ còn một trang công tử phong lưu đi dạo phố. Sự thay đổi nhanh chóng kỳ lạ!
Nghe nhắc tới tên mình, gã quay lại. Nhận ra chúng tôi, gã mỉm cười đưa tay chào … rồi lẩn vào đám đông.
Người hầu bàn đem lại hai ly nước cam tò mò hỏi tôi:
– Ông quen hắn hả?… Phải nhận là hắn có số hên, ông thấy không?
Tôi ngơ ngác:
– Số sao hên?… Tôi chưa rõ …
– Trời!… Gần nửa tỉnh hay nói chuyện này mà! Hắn là tay buôn kim cương, chẳng rõ làm cách nào đem được non trăm hạt qua mặt nhân viên quan thuế … Có người nói hắn giả làm phu khuân vác, còn kim cương bỏ trong chiếc bao da đựng dao quắm …
Anh ta ngừng chút để cười thích thú, rồi nói tiếp:
– Thằng cha thế mà ranh … Hắn để cái chuôi gỗ thò ra ngoài, thành thử ai cũng ngỡ bao đựng dao quắm thực! Khôn há!…
Chúng tôi phải chịu là hắn khôn hơn mình!
NMT phóng tác
(Theo A.Lanancher)
Trần Vũ đánh máy lại tháng 2-2024 từ tuyển tập 15 Truyện Mạo Hiểm của Nxb Sống Mới in tại Sàigòn trước 75.