Kiểm Duyệt Ngay Cả Địa Ngục

Trong bản dịch Điện Biên Phủ Một góc địa ngục của Vũ Trấn Thủ, Nxb Công An Nhân dân 2004, Hữu Mai, là người ghi lại hồi ức của Võ Nguyên Giáp, viết:

‘‘Nhân dịp kỷ niệm 50 chiến thắng Điện Biên Phủ, « Điện Biên Phủ – Một góc địa ngục của Bernard Fall » đã đến với người đọc Việt Nam. Tôi coi đây là một công trình trung thực, đầy đủ nhất của phương Tây viết về Điện Biên Phủ. Cuốn sách sẽ giúp cho người đọc thấy và hiểu được hầu như mọi diễn biến, con người ở phía bên kia, một sự bổ sung tuyệt vời cho những cuốn sách của chúng ta về Điện Biên Phủ. Tôi nghĩ đây cũng là dịp để bày tỏ lòng biết ơn một người đã đứng bên chúng ta trong suốt cuộc trường chinh giành tự do, đã ngã xuống trên chiến trường như một chiến sĩ, mà chúng ta chỉ biết tới một cách muộn màng, đó là nhà báo, nhà sử học, người anh hùng Bernard Fall. Tôi cũng nghĩ đây là lời cảm ơn chân thành gửi tới chị Dorothy Fall, người đã luôn luôn là trợ thủ đắc lực của chồng trong cuộc đấu tranh, người đã không ngừng gắn bó với Việt Nam.’’ (trang 14, sđd)

Hữu Mai bầy tỏ lòng tri ân của dân Việt mà ấn bản Việt ngữ từ bản Pháp văn Un Coin d’Enfer của Michel Carrière là lời cảm ơn chân thành gửi đến quả phụ Dorothy Fall. Một Dorothy mà Bernard Fall đã âu yếm ghi lên nền địa ngục: «Tặng Dorothy đã sống ba năm dài cùng những bóng ma Điện Biên.» (À Dorothy qui vécut trois longues années en compagnie des fantômes de Dien Bien Phu). Một Dorothy đã hy sinh trong cô độc, trong âm thầm lặng lẽ nuôi con, cho chồng sang Việt Nam khảo sát chiến tranh rồi cán mìn nổ tan xác.

Lời cảm ơn chân thành này ra sao?

Trang 207, Bernard Fall viết: ‘‘Về phía Việt Minh, họ cũng phải trả giá đắt cho trận đồi « Gabrielle ». Theo ước tính của các phi công quan sát Pháp, kẻ thù phải thiệt hại trên 1000 tử thương và có thể từ 2000 đến 3000 bị thương, và các tổn thất này thuộc các đơn vị thiện chiến nhất của đối phương. Qua kiểm thính điện đài của địch, Giáp đang phải khẩn cấp lấp đầy những lỗ hổng binh sĩ trong các đơn vị…’’ (Du côté du Vietminh, la bataille pour « Gabrielle » a aussi coûté cher. Selon les estimations des observateurs aériens français, l’ennemi a perdu vraisemblablement plus de 1000 tués et a eu peut être de 2000 à 3000 blessés, et cela dans certaines des meilleures unités qu’il possède. D’après les écoutes françaises du trafic radio ennemi, Giap a besoin de combler d’urgence les vides creusés dans ses rangs…)

Bản Việt ngữ của Vũ Trấn Thủ, trang 329: ‘‘Về phía Việt  Minh, họ cũng phải trả giá đắt cho trận « Gabrielle ». Qua theo dõi điện đài của địch, người ta thấy Giáp đang phải gấp rút lấp lại những lỗ hổng trong các đơn vị…’’

Không dịch: « Theo ước tính của các phi công quan sát Pháp, kẻ thù phải thiệt hại trên 1000 tử thương và có thể từ 2000 đến 3000 bị thương, và các tổn thất này thuộc các đơn vị thiện chiến nhất của đối phương. »

Trang 244, Bernard Fall viết: ‘‘Hai chiến xa hư hại nhẹ vì đạn rốc kết, nhưng đến 15 giờ khi trận ấu đả kết thúc, lính nhảy dù đứng trước một cảnh tượng phi thường. Kẻ thù tháo lui trong hỗn loạn và các đơn vị Pháp làm chủ trận địa. Thêm nữa thi thể của 400 xác Việt Minh nằm đầy mặt đất. Hai đại bác 57 ly, 5 đại liên cao xạ 12 ly 7, 2 trọng liên 12 ly 7 khác, 2 súng phóng rốc kết, 14 trung liên và hơn 1000 vũ khí cá nhân còn nguyên vẹn rơi vào tay quân nhảy dù.’’(Deux des chars sont légèrement endommagés par des roquettes, mais à 15 heures, la bagarre terminée, les parachutistes se trouvent devant un spectacle étonnant. L’ennemi se repli en désordre et les français sont maitres du champ de bataille. Par ailleurs les corps de 400 Vietminh jonchent le sol. Deux canons de 57, 5 mitrailleuses de 12,7 armes antiaériennes, 2 autres mitrailleuses de 12,7, 2 lance-roquettes, 14 FM et plus de 1000 armes individuelles tombent intacts entre les mains des parachutistes.)

Bản Việt ngữ của Vũ Trấn Thủ, trang 387: ‘‘Hai chiến xa bị đạn rocket địch bắn hư hại nhẹ nhưng đến 15 g, khi trận ấu đả đã kết thúc, quân Pháp đã làm chủ trận địa thu được 2 khẩu pháo cao xạ 57 ly, 5 khẩu trọng liên cao xạ 12,7 ly, 2 khẩu trọng liên 12,7 ly khác, 2 súng rocket, 14 trung liên và hơn 1000 vũ khí cá nhân khác. ’’

Không dịch: « Kẻ thù tháo lui trong hỗn loạn và thi thể của 400 xác Việt Minh nằm đầy mặt đất. »

Những ai biết Pháp văn đều dễ dàng nhận ra vô vàn những đoạn bị cắt cúp, biên tập, cắt sén hoặc thay chữ, trong mục đích làm lợi cho Việt Minh và thêm hào quang cho Võ Nguyên Giáp. Nhưng vô liêm nhất, là chương 11, chương “Kết thúc”(La Fin) dài 39 trang chữ nhỏ trong bản Pháp văn, sang đến bản tiếng Việt chỉ còn đúng 3 trang rưỡi, co chữ to. Vũ Trấn Thủ chú thích: “Tới đây là hết diễn biến của trận Điện Biên Phủ. Tiếp sau là vài đoạn nói về những diễn biến sau trận đánh. Vì khuôn khổ cuốn sách có hạn, chúng tôi mạn phép tác giả và độc giả không dịch những đoạn này mà tiếp theo ngay vào chương 12: Lời bạt.”

Vì sao không dịch tiếp? Vì các đoạn sau Bernard Fall viết về thương binh, tù binh, chính sách cải tạo nhồi sọ cùng sự tàn ác trong các trại giam Việt Minh. Như trang 521 Fall ghi lại, từ lời kể của các tù binh thả về, cảnh các binh sĩ Lê dương gốc Đức bất chấp quản giáo bắt hát Quốc tế ca và phải vỗ tay khi ban Tuyên giáo chiếu phim, đã đồng loạt đồng ca Ich Hatt’einen Kameraden, Einen bess’ren findst du nicht..” (Tôi có những đồng đội, anh không thể tìm thấy những bạn tốt hơn..). Trang 523, Fall kể lại việc y sĩ trung úy Jean-Louis Rondy, của tiểu đoàn 1 Nhảy dù Lê dương đã chứng kiến một thương binh cưa hai chân đã phải bò trườn lê lết trên hai tay và trên hai khúc đùi về đến tận trại giam Tuần Giáo, cách Điện Biên Phủ 83 cây số, sau đầu hàng. Tất cả những thương binh nặng đều tử vong vì không được chăm sóc. Trên những trang bị kiểm duyệt, Fall đưa ra số liệu: Khi chiến tranh chấm dứt, Việt Minh trao trả 10,754 binh sĩ Liên hiệp Pháp trên tổng số 36,979 bị bắt từ 1946, tức 28,5% (*). Riêng đối với tù binh Điện Biên, trao trả 3,920 trên số 11,721 hàng binh ngày 7 tháng 5-1954, tức 33,5%. 7,801 người lính còn lại, chết hoặc không tin tức. Là lý do vì sao Vũ Trấn Thủ ngưng dịch.   

Xem thêm:   Đại Tá Hoàng Cơ Lân – Kỷ niệm về đời lính dù

Đoạn cuối của một tác phẩm, bao giờ cũng là đoạn quan trọng nhất làm nên dư âm của tác phẩm ấy. Trong phần kết luận (L’Épilogue mà Vũ Trấn Thủ dịch là Lời bạt), 21 dòng chữ cuối cùng bị cắt đi, chỉ vì Fall ghi lại sự việc 24 khu trục cơ F-105 và Skyhawk A-4 đã ném 29 tấn bom xuống Điện Biên 11 năm sau, ngày 2 tháng 7-1965 mà cao xạ Bắc Việt không bắn trúng một chiếc máy bay Mỹ nào. Vì sao kiểm duyệt? Vì chạm tự ái?

Những nhát chặt bằng dao phai khiến đánh giá của Hữu Mai Tôi coi đây là một công trình trung thực, đầy đủ nhất của phương Tây viết về Điện Biên Phủ’’ đầy mâu thuẫn. Càng tương khắc khi Hữu Mai biết Pháp văn và đã đọc Lời tựa của Fall: ‘‘Nếu công thức nổi tiếng «Tôi thề nói lên sự thật, tất cả sự thật, không sợ hãi và không hận thù» có một ý nghĩa, thì tôi tin rằng, người ta có thể nói một cách công bình, đó là điều tôi đã làm trong tác phẩm này.’’ Bernard Fall đi tìm sự thật và trưng bày sự thật, với những tài liệu tìm thấy, nhưng Hữu Mai và Nxb Công an Nhân dân đã đánh tráo sự thật ấy.

Hữu Mai nghĩ đây cũng là dịp để bày tỏ lòng biết ơn một người đã đứng bên chúng ta trong suốt cuộc trường chinh giành tự do [..] Tôi cũng nghĩ đây là lời cảm ơn chân thành gửi tới chị Dorothy Fall, người đã luôn luôn là trợ thủ đắc lực của chồng…’’ Lời cảm ơn chân thành? Một món quà tàn độc và phỉ báng cho một quả phụ.

Hữu Mai, giải thưởng Văn học Bộ Quốc phòng, giải A Văn xuôi Hội Nhà văn, giải thưởng Nhà nước cho các tiểu thuyết Cao điểm cuối cùngVùng trờiÔng cố vấn, không nhắc đến cái chết của Bernard Fall vì cán phải mìn “của chúng ta” khi theo Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ hành quân Thừa Thiên.

Thierry Bouzard trên tập san Monde et Vie, số tháng 4-2009, đưa ra những thống kê: Tỷ lệ tử vong tổng quát trong trại giam Việt Minh là 69,04%. Mức tử vong tù binh gốc Pháp là 59,5%, cao hơn tỷ lệ tử vong trong các trại tập trung Đức Quốc xã, như trại Buchenwald 37%. [..] Tù binh VN thuộc quân đội Pháp tử vong 90% trong những trại giam này. Việt Minh thả 860 lính Việt trên số 14,060. Riêng đối với 9,404 tù binh thuộc Quân đội Quốc gia mà Giáp gọi là Ngụy, duy nhất 157 tìm lại tự do.’’ (Face à la Mort: Camps d’Extermination du Viêt-Minh).

Các danh tướng Nhật Tomoyuki Yamashita và Masaharu Honma từng chiến thắng vinh quang tại Mã Lai và Phi Luật Tân, đã phải ra toà án quốc tế với tội danh Tội phạm Chiến tranh và bị treo cổ vì để chết quá nhiều tù binh đồng minh. Võ Nguyên Giáp may mắn, chính vì Bắc Kinh không sụp đổ đã cứu vãn chế độ ông phục vụ. Nhưng không chế độ nào vĩnh hằng và không thiên tài nào chiến thắng thời gian.

Xem thêm:   Đại Tá Hoàng Cơ Lân - Y sĩ nhảy dù đối đầu với Việt Cộng

[Trần Vũ]

(*) Sau ký kết Genève,  Pháp thả 63,000 tù binh Việt Minh

Bernard Fall và lính Biệt Động Quân.

DVD tài liệu của Bộ Quốc phòng Pháp về các trại tử thần của Hồ Chí Minh.     

ĐỒNG CHÍ VI QUỐC THANH TRONG VIỆN TRỢ VIỆT NAM ĐẤU TRANH CHỐNG PHÁP

Vu Hoá Thầm

bản dịch của DƯƠNG DANH DY

Tác chiến đợt 3, giành toàn thắng

Từ hạ tuần tháng tư, quân Pháp có dấu hiệu tăng quân cho Thượng Lào, hòng tiếp ứng cho địch đóng giữ Điện Biên Phủ chạy xuống phía nam. Vi Quốc Thanh lập tức cùng phía VN nghiên cứu, kịp thời bố trí đề phòng địch phá vây. Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc căn cứ vào tình hình quân Pháp tập trung mấy tiểu đoàn lính dù ở Hà Nội, cuối tháng 4 đầu tháng 5 hai lần điện cho Vi Quốc Thanh, nhắc đồng chí đề phòng địch nhảy dù xuống nút giao thông quan trọng ở hậu phương quân đội nhân dân, để cắt đường tiếp tế, làm rối loạn hậu phương, và hiệp đồng với quân địch ở Thượng Lào giải vây Điện Biên Phủ.

Theo chỉ thị của Quân uỷ Trung ương Trung Quốc, Vi Quốc Thanh lại bàn với Võ Nguyên Giáp, tăng cường hơn nữa bố trí đề phòng quân địch giải vây ở hai hướng nam, bắc. Đồng thời quyết định: các đại đoàn 308, 312, 316 đêm 1/5 mở tấn công cứ điểm tây và đông sở chỉ huy Mường Thanh của quân Pháp, xiết chặt vòng vây hơn nữa. Trước hết tiêu diệt địch ở các cứ điểm đông sông Nạm Rốm rút binh lực cơ động để đối phó tình huống bất trắc. Sau khi chiến đấu bắt đầu, quân đội nhân dân rất nhanh tiêu diệt địch ở cạnh sườn cứ điểm C1 và tấn công cứ điểm 505, 505A, v.v.. chiến đấu đến ngày 3/5, lại tấn công tiếp cứ điểm 311A, 311B. Đến đây quân đội nhân dân đã áp sát sở chỉ huy Mường Thanh của địch.

Vi Quốc Thanh cho rằng, thời cơ tổng công kích Điện Biên Phủ đã chín muồi. Cùng với phía VN nghiên cứu, quyết định đêm 6/5 mở tổng công kích. Lúc này, đã đào xong đường ngầm thông sang đường hào cứ điểm A1, và chôn 1 tấn thuốc nổ. Sau tiếng nổ rền trời của một tấn thuốc nổ ở cứ điểm A1, cuộc tổng công kích trên toàn tuyến bắt đầu. Tất cả hoả pháo của quân đội VN kể cả pháo tên lửa 17 nòng của Trung Quốc trang bị vừa trở ra tiền tuyến cùng nã vào trận địa Pháp, với uy lực to lớn làm sát thương và choáng váng quân địch. Bọn địch dưới nhà hầm A1 bị thuốc nổ xé xác, bọn tàn quân trên mặt đất rất nhanh bị quét sạch. Đến sáng 7, tiêu diệt toàn bộ quân địch ở cứ điểm Châu Ôn, Na Nông, 506, làm cho Mường Thanh mất bình phong cuối cùng. Quân Pháp thấy rõ thế cờ, tiêu tan hy vọng, lúc 14g ngày 7, lục tục kéo cờ trắng, nộp vũ khí đầu hàng. Chuẩn tướng de Castries viên chỉ huy quân Pháp đã từng hùng hổ một thời cuối cùng cúi đầu, chắp hai tay cùng nhân viên Bộ Tham mưu của y ra làm tù binh của Quân đội Nhân dân.

Ngày hôm đó, đại đoàn 304 tấn công quân địch ở Hồng Cúm, phân khu nam. Hơn 2000 tên địch đêm tối phá vây chạy xuống phía nam, bị quân đội VN truy đuổi tiêu diệt vào nửa đêm. Đến đây, chiến dịch Điện Biên Phủ trải qua 55 ngày đêm, kết thúc với thắng lợi to lớn của quân đội VN. Thành quả chiến thắng Điện Biên Phủ rực rỡ, tiêu diệt tất cả 17 tiểu đoàn bộ binh, lính dù, 3 tiểu đoàn pháo binh, kể cả bộ đội công binh, thiết giáp, vận tải, v.v… tất cả là 16.200 tên địch. Trong đó có 10.903 tù binh, bao gồm 41 sĩ quan cấp tướng tá, 1.749 sĩ quan cấp uý, bắn rơi bắn hỏng 62 máy bay thu 30 khẩu trọng pháo, 6 xe tăng hơn 30.000 chiếc dù và số lớn vũ khí đạn dược và vật tư quân dụng khác.

Chiến thắng Điện Biên Phủ đã làm chấn động thế giới, càng chấn động nước Pháp. Chính phủ Pháp treo cờ rủ để tang cho các tướng sĩ trận vong ở Điện Biên, tập đoàn thống trị thốt lên tiếng ai oán và lời than vãn, còn những người tiến bộ trên toàn thế giới thì reo hò mừng vui. Ngày thứ hai kết thúc thắng lợi chiến dịch Điện Biên Phủ, tức ngày 8/5/1954, chính là ngày hội nghị Genève bắt đầu thảo luận vấn đề Đông Dương. Sự trùng hợp lịch sử này lại bao hàm nhân tố tất nhiên. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã phối hợp mạnh mẽ với đấu tranh ngoại giao ở hội nghị Genève, nó làm cho đoàn đại biểu Chính phủ VN không chỉ ở vào vị thế của người chống xâm lược, chính nghĩa, mà còn ở vào vị thế của người chiến thắng.

Xem thêm:   Con gấu ngựa

Đoàn đại biểu chính phủ Pháp không chỉ ở vào vị thế của kẻ xâm lược mà còn ở vào vị thế của kẻ thất bại. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã mở đường cho hội nghị Genève cuối cùng đi đến hiệp định lập lại hoà bình ở Đông Dương. Nhưng sau khi hội nghị Genève bắt đầu thảo luận vấn đề Đông Dương, đoàn đại biểu Pháp lại ra sức vẽ vời, xuyên tạc sự thật, vu khống công kích VN vấn đề đưa thương binh về nước, làm cho hội nghị trước tiên triển khai đấu tranh xoay quanh vấn đề phóng thích thương binh Pháp. Do đoàn đại biểu VN không có điện đài liên hệ trong nước, nên Trung ương đoàn, đoàn đại biểu chính phủ Trung Quốc Chu Ân Lai điện hỏi Vi Quốc Thanh về tình hình liên quan đến vấn đề phóng thích thương binh. Ngày 13/5 Chu Ân Lai gửi điện cho Vi Quốc Thanh nói: “Các nước phương Tây đang lợi dụng vấn đề thương binh ở Điện Biên Phủ để chỉ trích Liên Xô. Phía nhân sĩ tiến bộ và bạn bè mong muốn kịp thời có được tư liệu liên quan đến tình hình xử lý thương binh của phía địch ở Điện Biên Phủ, có thể điện cho biết bất cứ vào lúc nào về tình hình hai bên thương lượng thả thương binh nặng của phía địch và tình hình tiến triển cụ thể trong việc chuyên chở thương binh được thả để chuyển cho Phạm Văn Đồng và đoàn đại biểu Liên Xô, để có căn cứ tuyên truyền, đập tan âm mưu của địch”. Sau đó, Chu Ân Lai căn cứ vào tình hình phía Pháp nói phía Việt Nam chỉ thả thương binh người nước ngoài, không thả thương binh người VN, công kích VN “kỳ thị dân tộc”, ngày 15/5 một lần nữa Chu Ân Lai điện cho Vi Quốc Thanh hỏi: Trong đợt đầu thả thương binh nặng có thương binh Ngụy quân VN hay không, và nếu có, nếu đợt này không có, thì trong danh sách đợt hai nên có thương binh Ngụy quân VN, và cho công bố ”.

Lúc này, ở Điện Biên Phủ cũng tiến hành cuộc đấu tranh xoay quanh vấn đề thả tù binh, bị thương nặng của quân Pháp. Theo yêu cầu của Bộ Tổng Tham mưu quân đội VN cho phép phía Pháp chở tù binh bị thương nặng của họ và cử đoàn đại biểu đến Điện Biên Phủ để bàn cách chở cụ thể, ngày 13/5 phía Pháp cử đoàn đại biểu do giáo sư Huard dẫn đầu đến Điện Biên Phủ, thương lượng với phía VN và đạt được thoả thuận như sau: “Vì sân bay khó sửa chữa nên phía Pháp dùng máy bay trực thăng và máy bay vận tải cỡ nhỏ để chuyên chở tù binh bị thương. Trong thời gian này, phía Pháp bảo đảm ngừng hoạt động máy bay oanh tạc xung quanh Điện Biên Phủ 10 km và trên tuyến đường từ Điện Biên Phủ đi Tuần Giáo dọc quốc lộ số 41 đến Sơn La”. Ngày hôm sau, thoả thuận được Bộ chỉ huy hai bên phê chuẩn có hiệu lực. Đợt đầu tiên tù binh bị thương nặng được chở về Hà Nội.

Phía Pháp lập tức phát hiện thoả thuận trên có lợi cho VN, phía VN có thể nhân cơ hội này vận chuyển số lớn vật tư đã thu được ra ngoài Điện Biên Phủ. Vì thế phía Pháp bác bỏ thoả thuận trước, ngày 16/5 đổi lại cử đoàn đại biểu do thiếu tá Jamis dẫn đầu đi Điện Biên Phủ đưa ra kiến nghị mới với phía Việt Nam, yêu cầu sửa chữa sân bay, để máy bay vận tải cỡ lớn vận chuyển thương binh, thay đổi điều khoản máy bay quân Pháp ngừng hoạt động bắn phá quốc lộ 41. Khi Việt Nam chưa trả lời, phía Pháp đã đơn phương ngừng chuyên chở thương binh nặng của họ và khôi phục hoạt động của máy bay trên tuyến quốc lộ 41. Phía Việt Nam lập tức vạch trần đầy đủ hành vi lật lọng đó của phía Pháp.

Vi Quốc Thanh tuân theo chỉ thị của Chu Ân Lai, trên đường từ Điện Biên Phủ trở về hậu phương, nhiều lần cùng phía VN nghiên cứu vấn đề thả tù binh bị thương, áp dụng một số biện pháp quan trọng và thuyết phục phía VN thả một số tù binh bị thương của quân Ngụy VN. Vi Quốc Thanh đã điện báo kịp thời cho Chu Ân Lai những biện pháp của phía VN thả tù binh bị thương, tình hình tiến triển thả tù binh hằng ngày và cả tài liệu Bộ Tổng tham mưu quân đội VN vạch trần phía Pháp phá hoại thoả thuận chuyên chở tù binh bị thương, từ đó làm cho đoàn đại biểu VN có sự thực xác đáng vạch trần mạnh mẽ âm mưu của phía Pháp lấy vấn đề tù binh bị thương làm cái cớ để phá hoại đàm phán hoà bình Genève.

(Còn tiếp 1 kỳ)

Vu Hoá Thầm

(đăng trong Thượng tướng Phong Vân lục
Đại Bách Khoa toàn thư xuất bản năm 2000 )

Hồi ký 23 năm trong lao tù Việt Minh của đại úy Huỳnh Bá Xuân bị bắt tại Hưng Yên năm 1953, “tạm tha” năm 1976. Quả phụ thống chế De Lattre can thiệp cho đại úy Xuân sang Pháp định cư năm 1984.

Tù binh Pháp khi Điện Biên Phủ thất thủ.

Tù binh Pháp sau khi trao trả.

Xạ thủ đại liên Pierre Yassimides tại bệnh viện Lanessan Hà Nội sau trả tù binh. Hình của Hội Ái hữu Tiểu đoàn 8 Xung Kích Nhảy dù (8e CHOC)

Binh sĩ Tiểu đoàn 5 Nhảy dù Việt Nam trao trả sau hiệp định Genève.