Phòng trà “Vọng Ngày Xanh” nằm trong trung tâm phố biển Phan Rang, ngay ngã tư một góc phố thưa thớt giao thông, là tầng trệt của một căn nhà hai tầng, diện tích khoảng chừng 40 thước vuông. Phòng được trang bị một máy điều hòa không khí và nhiều quạt máy. Góc này, cạnh cửa ra vào, là bục gỗ thấp, sàn lót thảm nhựa bóng loáng, được thiết kế thành sân khấu, đủ rộng cho vài người đứng hát, dựng một cây đàn phím điện tử, trang trí cây cảnh giả tươi sắc và một dàn đèn rực rỡ. Góc kia là nơi pha chế nước uống, bên cạnh nhà vệ sinh gọn gàng, sạch sẽ, có sẵn giấy đi cầu, là điều hiếm thấy tại các hàng quán nơi đây. Bên dưới sân khấu, khoảng chục chiếc bàn nhựa con màu đen và vài chục chiếc ghế nhựa gấp sơn đỏ kề nhau san sát.
-oOo-
Từ những năm trung học, tôi đã bắt đầu yêu thích tân nhạc Việt Nam. Đầu thập niên 1960, tôi bắt chước các chị, dành dụm tiền ăn vặt được má phát cho mỗi ngày một đồng, mua một tập bìa cứng đóng giấy ca-rô để chép những ca khúc thịnh hành thường nghe ca sĩ hát trên đài phát thanh, trong những chương trình đại nhạc hội hoặc trong những buổi phụ diễn ca nhạc những tối cuối tuần trước giờ chiếu phim.
Trí nhớ tôi vẫn còn đậm nét những khuôn mặt, vóc dáng và tiếng hát thời danh thuở ấy: Hoàng Oanh với “Chuyến Đò Vỹ Tuyến” của nhạc sĩ Lam Phương, Phương Dung với “Khúc Hát Ân Tình” của nhạc sĩ Xuân Tiên, Minh Hiếu với “Ngăn Cách” của nhạc sĩ Y Vân, Thanh Thúy với “Tàu Đêm Năm Cũ” của nhạc sĩ Trúc Phương, Hùng Cường với “Ông Lái Đò” của nhạc sĩ Hiếu Nghĩa, Thái Thanh, Hoài Trung, Hoài Bắc trong ban hợp ca Thăng Long với “Ngựa Phi Đường Xa” của nhạc sĩ Lê Yên…
Trong lớp đệ thất năm ấy, hai đứa ngồi cạnh tôi là Sơn và Ngọc. Ngọc thích sưu tầm tem thư, còn Sơn thích hát tân nhạc như tôi. Thỉnh thoảng, sau khi giảng bài xong, còn mười, mười lăm phút trống, ông thầy dạy đại số học thường kêu Sơn hoặc tôi lên bục đứng hát giúp vui cho cả lớp. Tôi nhớ, một chiều mưa năm nào, tôi 13 tuổi đã uốn giọng nắn nót “Tôi Đưa Em Sang Sông” của nhạc sĩ Y Vũ (2). Chẳng hiểu tôi hát hò ra sao, mà chỉ vừa ngân nga vài câu, ông thầy đã bắt ngưng, kêu về chỗ ngồi.
Sang năm đệ lục, lần nọ sau khi năn nỉ muốn hụt hơi, chị tôi mới cho mượn đọc “Vòng Tay Học Trò” của Nguyễn Thị Hoàng, tôi khởi sự yêu thích thú chuyện văn chương, và viết truyện, làm thơ thiếu nhi gởi cho nhà văn Duyên Anh là người phụ trách vườn thơ văn Búp Bê trong nhật báo Sống. Sở thích âm nhạc của tôi chuyển hướng, chỉ thích nghe nhạc Anh, nhạc Pháp. Giữa thập niên 1960, thời vàng son của Elvis Presley, Pat Boone, Paul Anka, Cliff Richard, Connie Francis, Brenda Lee… đã qua, nhường chỗ cho những ban nhạc trẻ Anh, Mỹ có những ca nhạc sĩ để tóc dài, áo bó, quần ống loe với The Beatles, The Rolling Stones, và những khuôn mặt khả ái, giọng hát trẻ trung của dòng nhạc phổ thông Pháp được giới trẻ Sài Gòn đặc biệt yêu thích: Francoise Hardy, Sylvie Vartan, Adamo, Christophe, Hervé Vilard …
Lẽ đó, tôi lại có thêm một quyển tập nhạc khác, để chép lời các ca khúc Anh, Pháp được in trong nguyệt san nhạc trẻ Salut les Copains hay trong các tuần san văn nghệ Màn Ảnh hay Điện Ảnh. Tôi cũng học thêm tiếng Anh, tiếng Pháp qua sở thích này, ngoài những giờ ngoại ngữ tại trường hay tại Hội Việt Mỹ.
Lên năm đệ ngũ, lại một lần nữa sở thích âm nhạc của tôi thay đổi như nắng mưa thời tiết, theo những tình huống nghiệt ngã của cuộc nội chiến.
Một chiều mưa năm nào, khi đang ngồi ghi những cảm xúc vu vơ lên trang giấy học trò, tai tôi bắt được một giai điệu và một giọng hát lạ thường văng vẳng từ máy phát thanh. “Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ. Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao… Mưa vẫn hay mưa trên hàng lá nhỏ. Buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua …” (3)
Tâm tư tôi 14 tuổi bất chợt ngổn ngang những cảm xúc dậy thì.
-oOo-
Khách tới hát tại phòng trà “Vọng Ngày Xanh” gồm đủ thành phần, mọi lứa tuổi. Qua cách ăn mặc, đoán được dòng nhạc họ trình bày. Chú Bách với áo sơ-mi dài tay, quần tây gấp nếp thẳng tắp, thắt dây nịt, giày da đánh bóng, chỉ “xử lý” những ca khúc tiền chiến. Chị Thu Cúc trong chiếc áo dài trơn màu nhu hay hoa văn nhã nhặn thường hát nhạc Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Hoàng Trọng. Cậu Thức với quần tây, áo thun tuyền một màu đen, thắt dây nịt dài quá khổ, đôi khi đeo thêm kính mát, đội nón vải, lên sân khấu huơ tay múa chân như động tác một người máy, ngọng nghịu cất giọng những bài nhạc trẻ. Bà Anh với mái tóc nhuộm vàng râu bắp, điểm trang diêm dúa, ngực mông núng na núng nính trong chiếc áo dạ hội viền voan xòe, vải kim tuyến lóng lánh, bó sát thân hình đẫy đà, ngó y hệt một người cá nạ dòng, bước lên sân khấu nhả chữ rời rạc một ca khúc tuổi học trò. Anh Hữu có thói quen, sau khi trịnh trọng giới thiệu tên bài hát, tiếng nhạc vừa vang lên, hai chân anh tự động dang ra như con cua banh càng trước hiểm họa gần kề. Cô Tâm đơn giản tối đa với áo thun, quần đùi, dép nhựa, ngoác miệng rú rống xong ra về, như vừa rời khỏi một gian hàng hô nhạc lô-tô …
Còn tôi, với tấm lòng trân trọng âm nhạc và thính giả, thường xuyên với quần dài, dây nịt, áo sơ-mi dài hoặc ngắn tay tùy theo thời tiết, thỉnh thoảng tròng thêm chiếc áo ghi-lê. Thói quen của tôi khi lên hát: Yêu cầu cho hiện lên màn hình trọn vẹn lời bài hát, thì thầm vài câu cho nhạc công lấy tông, chào và giới thiệu tựa ca khúc và tên nhạc sĩ. Và tôi bắt đầu cất tiếng với tâm tưởng ngược về quá khứ.
Tôi thấy lại tôi thuở hoa niên, ngồi một mình ở bậc tam cấp, trong bóng mát tàn ổi lão xõa bóng lốm đốm, mở tập nhạc chép tay, thầm thì một ca khúc ưa thích: “Những Đồi Hoa Sim” của nhạc sĩ Dzũng Chinh, “Ai Ra Xứ Huế” của nhạc sĩ Duy Khánh, “Ngăn Cách” của nhạc sĩ Y Vân …
Và tôi nhớ lại những năm trọ học trong ký túc xá sinh viên 7 tầng, có khung cửa kính rộng, nhìn xuống bãi đậu xe thênh thang và thung lũng rực rỡ bông cải vàng mỗi mùa xuân. Phòng trọ 15 mét vuông, với những bạn đồng môn Trường, Thiện, Bản, Chương …
Những tối sau biến cố 1975, chúng tôi thường tụ họp bên nhau, uống và hát, tâm tư khắc khoải, âu lo. Thiện hay Bản gảy ghi-ta. Tôi mềm giọng khắc khoải những “Người Em Sầu Mộng”, “Khi Em Nhìn Anh” của nhạc sĩ Y Vân, “Áo Lụa Vàng” của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ… Khi bia rượu mềm môi, ngón đàn giọng hát chếnh choáng hơi men, tôi và các bạn chuyển sang những “Con Đường Mang Tên Em” của nhạc sĩ Trúc Phương, “Đám Cưới Đầu Xuân” của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh, “Phố Vắng Em Rồi” của nhạc sĩ Mạnh Phát, “Nếu Vắng Anh” của nhạc sĩ Anh Bằng …
Tôi một lần say khướt, lảo đảo bước vào phòng vệ sinh, khóa trái, nôn mửa thốc tháo vào bồn cầu. Rửa mặt xong, tôi nhìn tôi trong gương. Hai mắt tôi đỏ hoe, men lệ ràn rụa những thanh âm và bóng hình quá khứ.
-oOo-
“Con mời ông mua giúp con.”
Cậu bé khoảng chừng 7, 8 tuổi chìa xấp vé số ra trước mặt chúng tôi, đám khách đàn ông đang ngồi hút thuốc lá, tán gẫu trước phòng trà “Vọng Ngày Xanh”, chờ tới lượt được xướng tên mời lên sân khấu.
Ai cũng lắc đầu.
“Con cám ơn ông”, cậu bé gập người, khoanh tay chào. Cậu vừa dợm chân bước đi, một người lớn giọng:
“Con nhà ai lễ phép vậy trời! Tới đây!”
Người khách mua 5 tờ, đưa tờ giấy một trăm ngàn, khoát tay.
Một lần nữa, cậu bé gập người, lớn tiếng cám ơn rồi bước đi lẹ làng, như sợ người khách đổi ý.
-oOo-
Và giờ đây, 50 năm sau ngày một nửa phần đất nước bị xóa tên, tôi vẫn còn trăn trở mê ám cùng âm nhạc và văn chương. Như một giấc mộng dài. Chưa thức.
NND (Tháng 4.2025)
(1) Tựa đề một ca khúc của nhạc sĩ Khánh Băng.
(2) Có nguồn tin khác, ca khúc này của nhạc sĩ Nhật Ngân.
(3) “Diễm Xưa”, Trịnh Công Sơn.