Thương gởi cho các thế hệ sau cả một vùng trời Quê Mẹ Việt Nam, từ ngàn xa.
Theo định nghĩa thứ nhứt của một trang trên mạng, trẻ trâu (xưa) là đứa trẻ chăn trâu, bò nói chung. Nghĩa thứ hai (nay) là tiếng lóng, hàm ý phê phán chê bai hoặc mỉa mai, thanh thiếu niên bốc đồng, thích thể hiện cái tôi. Nghĩa thứ ba (nay) cũng là tiếng lóng, là thời còn trẻ, còn trẻ con.

Nếu chiếu theo nghĩa thứ nhứt và nghĩa thứ ba, tôi cũng có thể được gọi là trẻ trâu dăm ba lần vì cùng với ông Ngoại hay em Vững (là em họ bạn dì của tôi) chăn trâu. Hôm nay tôi sẽ kể tất tần tật về một tôi trẻ trâu nghịch ngợm không ngờ.
Trẻ trâu ư? Tôi ư? Cái mặt xán lạn này ư? Thưa phải! Tuy tôi không phá làng phá xóm, không ăn trộm ăn cắp, không bướng bỉnh hay có cái tôi thật lớn theo như nghĩa thứ hai nhưng nghịch ngợm thì không thiếu phần, mà chỉ có thể thể hiện tại quê ngoại. Chỉ ở nơi ấy, tôi mới có dịp “nghịch hết mình”. Lời thỉnh cầu của người cháu thuộc thế hệ sau chợt khuấy động cả một miền tuổi thơ của tôi tại quê Ngoại, Long Trì. Long Trì là một xã của Long An nhưng lại giáp ranh với Mỹ Tho, Tiền Giang, một nơi có nền văn minh sớm nhứt nhì của Nam Kỳ Lục Tỉnh.
Nếu như quê Nội đã cho tôi những kỷ niệm khó quên của sông nước miền Nam thì quê Ngoại đã cho tôi những ký ức nhớ đời và vô cùng đặc sắc của vùng đồng bằng Nam bộ. Quê Ngoại tôi, một vùng đất trù phú với đồng ruộng phì nhiêu, nhìn mút tầm mắt, cò bay thẳng cánh, ngày xưa có tôm cá của Trời, của thiên nhiên nhiều vô số kể, còn có ruộng dưa hấu và thanh long. Vườn nhà Ngoại với hàng cau thẳng tắp, cao vời vợi. Cứ mỗi mùa xuân, hoa cau đơm trắng xoá, thơm lừng, còn có liếp dừa, trĩu trái với đủ loại: dừa ta, dừa xiêm, dừa Tam quan, để uống, nước ngọt lịm và mát rượi tới tận ruột gan. Chưa hết, Ngoại còn trồng xoài, cam, quýt, bưởi, lekima, sa bô chê. Tôi nhớ mãi vẫn là cây vú sữa hột gà, cây mọc cao lắm, mà lại nhiều cành, rất dễ leo, tới mùa trái sai, oằn cả nhánh, mỗi lần chị Chi leo lên hái cho Ngoại phải vài thúng đầy!

Chổi tàu cau. Nguồn: internet
Đó là nói đến cảnh vật, về con người càng hay hơn. Ông Bà Cố chỉ có một người con là Ông Ngoại nên nhà ngoại là tứ Đại đồng đường, cùng sống chung vui vẻ, hạnh phúc… Ông Bà Cố tôi có gốc từ Miền Trung, vào Nam lập nghiệp. Tư cách, đạo đức và cả kiến thức của ông Cố là có một không hai ở một nơi “khỉ ho cò gáy”, chòm xóm ai cũng nể trọng. Mẹ tôi kể mỗi buổi sáng, Ông Cố uống trà là những lúc Ông nói về đạo làm người, về lễ nghĩa cho các cháu nghe.
Bà Cố rất đặc biệt và dám chừng nổi trội hơn cả Ông, và tầm ảnh hưởng của Bà với con cháu thật không nhỏ. Cố hay kể chuyện tiếu lâm. Bà còn có biệt tài là bó chổi chà thiệt khéo. Hàng cau của Cố có khoảng chục cây rải rác trong vườn nhà, đủ để bà bó chổi xài quanh năm, còn cho, biếu đủ chỗ. Bà hay ngồi ngoài hành lang trước nhà dưới, bày biện mớ tàu cau ra, dùng răng cắn một đầu dây để siết chổi sao cho chặt. Răng bà thật chắc và đều. Bà chêm thêm ngoe dừa để làm cho chổi cứng cáp. Những cây chổi nho nhỏ, xinh xinh bà cho tôi thuở xưa cầm thật vừa tay. Có nó, tôi có thêm hứng thú quét nhà.
Cố còn cắt cho chị em tôi nhiều chiếc “quạt mo thằng Bờm” rất mát và tiện lợi từ mo cau.

Quạt mo cau. Nguồn: internet
Nhắc đến mo cau, tôi sực nhớ tới chuyện tụi tôi kéo mo cau làm ngựa phi đường xa, phi lộc cộc, một đứa nắm ở đầu tàu lá cau, một đứa ngồi trên mo cau, kéo lê dài trên sân nhà Ngoại. Có khi té lộn mèo, té “lăn cù đèo” trên sân xi măng, cùi chỏ, đầu gối rướm máu vẫn “ngây” chơi, lồm cồm ngồi dậy chơi tiếp.
Bà Cố tôi hay ăn trầu. Nhờ vậy mà tôi biết được tập tục ăn trầu ở Việt Nam hồi xưa. Trầu, cau đều là cây nhà lá vườn cả. Lúc có mấy bà hàng xóm tới, Cố bày ô trầu ra. Ô trầu của Cố bằng nhôm, có hai ngăn, ở trên là cái dĩa cạn, có để vài lá trầu với lọ vôi bằng sành nho nhỏ, hoa văn xanh xanh, bên trong là cái chìa để trét vôi lên lá trầu, xong bỏ vô miệng nhai ngỏm ngoẻm. Có lúc hai bà xài ống nhổ; có lúc, bà Năm Ô là bạn Cố cứ nhắm vô gốc cột mà làm một cái “phẹt”. Thế là góc cột nhuộm đỏ màu bã trầu… Nếu tôi đứng gần đó, dám chừng văng đỏ chưn luôn.
Nhà Ngoại có cái hồ nước cao quá đầu người. Bọn tôi gồm có chị Chi, chị Hà, tôi, Vững, Oanh, hay bắc ghế đẩu lên trên đống đá xanh ông Ngoại xây nhà còn dư để cạnh hồ mà leo lên, chơi trò ô quan hay đánh đũa. Chúng tôi vịn vô ghế, đưa nhau từng đứa một lên, tên gan nhứt thót lên sau cùng. Thưa đúng! Không chơi dưới đất mà chơi trên hồ nước. Vào thập niên 80, nhà nghèo làm gì có đồ chơi? Những trò chơi dân gian được tụi tôi chơi đi chơi lại, chơi hoài không chán. Chúng tôi lấy phấn vẽ ô quan, mang đá lên chơi. Bọn tôi còn hay mở nắp hồ nước ra coi, sâu thăm thẳm và tối, đen ngòm ở dưới. Mỗi lần bà Cố bắt gặp là la và kêu xuống vì Cố sợ té, và vì Cố là tuýp người Nam xưa, nền nếp lại cổ hữu.

Hình: internet
Khi tụi tôi chơi đánh đũa, với banh là trái chanh, và đũa đâu có đũa nào khác ngoài bộ đũa mun ăn cơm từ cũi chén nhà Ngoại. Vì thế nên bị Cố la:
– Đũa để ăn mà chơi gì, nghèo chết à con!
Chị Chi bày trò chơi tưởng tượng ra… thầy chùa bằng những trái vẹt. Trái vẹt khi cắt ra trên đầu có hình thù giống y thầy chùa. Bà Cố mà bắt gặp là tụi tôi bị la:
– Tổ cha tụi bây, chơi cái gì kỳ, tối ngày bày ba cái trò đó! Không nên nha con, mang tội chết, xuống âm phủ ăn giòi nhe hong con!
Cố hay la tụi tôi khi kêu “Trời”. Còn nữa, khi chơi sò bằng những cục đá xanh:
– Tối ngày cứ bốc thảy, bốc thảy!
Hay Cố la chị Chi, vì bày đầu:
– Con gái gì mà trò nào cũng có, chắc hồi đó mụ bà nắn lộn!

Bà Cố
Có lần tôi theo Cố phụ cho bê uống nước, bị nó đá đau điếng. Nhờ đó mà tôi rất thấm thía câu “đau như bò đá”. Chị Chi còn có thể tung hứng bằng 3 cục đá xanh một hồi lâu, tài thật!
Còn đây là kỷ niệm tắm mưa, tắm kinh với Vững, Oanh: Tôi cũng gan lắm đa, không biết bơi mà mỗi lần về Ngoại, Oanh hay Vững rủ lội kinh là mê lắm. Vững thì có phao làm bằng ruột bánh xe hơi của bác Sáu cho từ Tây Ninh đem về, cứ thế mà đập bùm bũm. Tôi và em Vững vừa đập bùm bũm vừa mò hang tôm tích ven bờ, loại tôm búng tốc tốc thật kêu ấy. Cũng may, chưa bao giờ mò trúng phải hang rắn nên còn ở đây viết nên những dòng này… Tắm kinh với Oanh là tắm không phao. Có lần, tôi xém hụt giò, uống tí nước kinh rồi, nhưng… chưa đầy bụng, không hiểu sao cuối cùng ngoi lên lại được nữa. Nghe bọn trẻ bày nhau cho chuồn chuồn cắn rún thì biết lội, tôi cũng thử nhưng nào có bơi được cho tới sau này qua Mỹ đi học bơi? Không biết Trời thương, cứu mạng thế nào mà giờ còn ở đây. Sau này có dịp nhìn lại con kinh ấy, nó đã ngả sang màu xanh lá, vì nước ứ đọng, tù túng, rất bẩn vì không lưu thông như hồi xưa.
Hồi đó em Vững rất nghịch ngợm, và lúc nào cái đầu em ấy cũng có mùi “khét nắng” rất đặc trưng của một đứa trẻ quê. Về Ngoại mà được em ấy dẫn đi “phá” là tôi rất khoái chí! Có lần, tụi tôi tinh nghịch phá bà Năm Ô, bạn bà Cố. Khi bà ấy qua nhà chơi với Cố, vì phản xạ của người già không nhanh lắm nên tụi tôi núp từ xa, lấy đá chọi vô gần bà, báo hại bà ngó dáo dác xung quanh để kiếm, mà cuối cùng cũng không biết đá được chọi từ đâu. Cuối cùng bà lắc đầu, chép miệng, rong ruổi bước tiếp, vô chuyện trò với bà bạn già là Cố đang đợi ở trong nhà. Tụi tôi núp ở chái trên gần lan can, được một trận cười khúc khích no bụng và… nôn cả ruột.

Ô trầu đồng, ống nhổ, chìa vôi. Nguồn: internet
Trẻ trâu sẽ không phải là trẻ trâu nếu không biết đá dế. Đứa nào tóc dài là bị bứt tóc, xếp làm đôi, mắc vô chưn con dế, phun chút nước miếng, quay vòng tròn, quay mòng mòng cho nó thật say, rồi bỏ vô cho nó đá, nó sẽ đá như điên loạn và chủ nó sẽ thắng.
Tụi tôi còn vô số trò như nhúng bánh tráng vô lu nước uống, ăn rất ngon (nhưng rồi báo hại ông Ngoại phải súc lu), đánh bài uống nước, tạt lon, đánh trỏng (đánh khăng), chơi u … đành hẹn dịp khác vậy.
Còn kỷ niệm “đổ máu” giữa em trai tôi, Danh và Vững con dì Tư: Số là Vững tắm mương, Danh đứng trên bờ. Vững kêu Danh chọi đá xuống, Vững sẽ lặn xuống kiếm. Xui xẻo sao lần đó cục đá trúng ngay chỏm đầu Vững, chảy máu đỏ cả một vùng nước mương. Em Danh chắc bị một phen hú hồn!
Dượng Tư, ba của em Vững, cũng hay bày cho tụi tôi cười thật lớn, hả miệng thật to…
– Ha ha ha.
– Cười lại, không phải vậy!

Lan can mà Cố ngồi bó chổi, cũng là nơi tụi tôi đã núp và trêu ghẹo bà Năm Ô
– Hic hic hic.
– Chưa giống, cười lại đi con..
– Kha…Kha…Kha…!
Cười đủ kiểu, cười “bể” nhà, cười rát cả cuống phổi, cho tới khi nào Dượng nói được mới thôi. Nhưng khi về Nội cười lớn lại hay bị la vì nhà Nội khó hơn, khuôn khổ hơn, cứ hay bị la:
– Con gái con lứa gì mà cười kỳ cục, không giữ ý tứ gì cả!
Những kiểu cười này cũng đi theo tôi suốt cuộc đời này. Nụ cười bằng 10 thang thuốc bổ. Khi vui cười hết cỡ, tôi lại sực nhớ Dượng Tư.
Cả cảnh vật lẫn con người nay đã cách xa ngàn trùng. Mỗi lần tôi về thăm nhà Ngoại là mỗi lần ôn lại những kỷ niệm tuổi thơ. Lần tìm về dấu vết của ký ức, đi đến đâu cũng có bóng dáng của người xưa. Nhìn hồ nước lại nhớ Cố hồi xưa hay la “Tổ cha mày”. Ôi, những cây chổi chà nhỏ xinh, những cái quạt mo quạt mát rượi những đêm hè… Ngôi nhà xưa… Đâu cả rồi? Phải chăng đây là quy luật của thời gian? Có ai biết làm sao có thể ôm giữ miền ký ức tuổi thơ vĩnh viễn không? Xin cảm ơn hết những con người đã làm nên trẻ trâu của tôi. Nếu không có nó chắc đời này vô vị biết dường nào!
ND








