“…Chỉ là những câu chuyện vụn vặt được chắp nối qua những mảnh đời dân quê miệt kinh rạch hầu san sẻ cùng bạn trẻ, những người chưa hoặc không có dịp sống gần gũi với dân ruộng về các miền kinh rạch ấy như một nét đặc thù của văn minh Việt bên cạnh một nếp “văn minh miệt vườn” khá sung túc, trù phú…” (Hai Trầu Lương Thư Trung).

Luôn tự nhận mình là một “người nhà quê”, nhưng ai cũng hiểu là cách nói khiêm cung của một học giả, kiến thức quảng bác, như bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trìu mến nhận định “Nó là văn chương miệt vườn. Sau này muốn biết về miền Nam mưa nắng hai mùa ra sao thì phải đọc Sơn Nam và Hai Trầu thôi.”.

Mời bạn cùng chúng tôi dạo chơi cùng mưa nắng miền Nam…

(tiếp theo)

Tôi nhớ hồi gặp lại chú ở chủng viện Cái Răng năm nẳm. Tôi nhớ lúc chú ngồi bên gốc ô môi vào mùa hè bông ô môi nở rộ mà tơ tưởng chuyện đời. Tôi nhớ những trưa nắng mùa hè chú tát ao cá tra tìm hang rắn vây cóc ăn luồn ra con rạch phía sau nhà chung. Con rạch nhỏ đục ngầu rỉ rả thả nước bạc vào hầm làm cá tra mò theo dấu nước mát đi ra sông tuốt luốt.

Vậy mà rồi, ngày tháng trôi qua, có tới hai mươi lăm năm rồi anh em mình xa cách nghe chú! Mau quá là mau mà mình thì cứ ì ạch hai chữ nghèo hèn, sống đời lam lũ qua ngày. Nhiều lúc tôi nghĩ cái kiếp con người vậy mà cũng bền bỉ dữ quá phải hông chú Ba? Đời nào cũng sống được, nơi nào cũng sống được và lại sống dai thế mới lạ kỳ đời!

Hôm trước tình cờ tôi gặp chị Hai Hương, con ông giáo Thận, chị này cũng một thời làm cô giáo vườn theo cái nghề cũ của cha mình và tiếp tục sống thanh bạch nghèo rớt mồng tơi. Chị Hai Hương năm nay cũng còn mạnh giỏi và có cho tôi mượn cuốn Nhật Ký Truyền Giáo của Cha H, trước dạy học ở Cần Thơ, sau về miệt Năm Căn, Cái Rắn thuộc Cà Mau truyền giáo mấy chục năm liền. Cuốn sách gì mà hay quá là hay nghe chú Ba. Giống như Quốc Văn Giáo Khoa Thư hồi xưa. Tôi đọc đi đọc lại hoài mà bắt ghiền. Bây giờ mình già rồi, càng đọc những mẩu chuyện càng giản dị, càng mộc mạc mà Cha H ghi lại nó càng thấm thía chú Ba à!

Chẳng hạn nhắc lại câu chuyện: “Chúng con nghèo quá, anh em cãi nhau hoài” của một cô gái ở Sơn Tây, nói về người cha chết để lại cho hai đứa con, một gái một trai, gia tài gồm một miếng vườn nhỏ cho đứa con trai và một bụi tre gai cho người con gái. Và từ đó mà anh em phân ly vì hai cái món vườn cây ăn trái và tre là hai thứ không hợp nhau trong cách sống chung. Rồi Cha H dẫn lời của một văn hào trong quyển Những Kẻ Khốn Cùng như vầy nè chú Ba: “Nghèo và dốt là một cặp vợ chồng đẻ ra muôn vàn tội ác”. Và Cha đưa ra kết luận thiệt là chí lý, thâm thúy: “Mà đã nghèo thì phải chịu dốt. Thế mới độc.”

Câu kết nghe nó chua cay quá cho thân phận những người nghèo hèn mà còn cái nạn chữ nghĩa ít ỏi nữa phải hông chú? Số phận mà, đâu có ai muốn mình hẩm hiu như vậy đâu. Cha H quả thật là người tu hành đã hiểu được giùm cho những người nhà quê nghèo dưa muối cháo rau mãn đời…

Bìa Nhật Ký Truyền Giáo của Cha H 

Chú Ba ơi, như vậy đó, còn nhiều lắm những chuyện bần hàn thảm thương của dân quê ở vùng rừng mắm, rừng đước, rừng tràm miệt Cà Mau, Năm Căn cứ triền miên.

Xem thêm:   Nhạc sĩ Tuấn Lê vẫn thương hoài tà áo đêm Noel

Hôm qua có anh Tư Minh qua thăm tôi, nhậu cá lóc hấp, cua óc nấu lá sả, rắn bông súng xào lá lốt muốn quắc cần câu, nhưng anh em ai ai cũng nhắc chú hoài. Chú có bị nhảy mũi hông vậy chú? Bây giờ già cả rồi cho nên mỗi lần có dịp gặp anh em là tôi mừng lắm. Loay hoay mà gần tới rằm thượng nguơn rồi chú Ba à! Mau quá phải hông chú? Thời buổi bây giờ cái gì cũng ào ào như ma rượt. Lúa mới sạ rồi sắp sửa cắt gặt. Cắt gặt chưa hết đồng thì đất gò lo sạ tiếp mùa khác nữa rồi! Vậy mà nhiều lúc đâu có đủ đâu vào đâu. Trăm thứ đều trông mong vào ba hột lúa trong bồ thấy phát rầu. Nhưng buông cái nghề làm ruộng thì biết sống bằng nghề gì bây giờ. Cũng đành chấp nhận như vậy lây lất. Dân quê mình thì thời nào cũng lây lất cho qua ngày, qua buổi.

Nhiều lúc tôi nhớ lại cảnh đem tiền mua ba cái đồ giả mà tiếc hùi hụi. Chẳng hạn thuốc sâu giả, nước biển giả, thuốc trụ sinh giả rồi bây giờ nghe nói ở các chợ bán hủ tiếu giả nữa nghe chú Ba. Người ta trộn vô bột làm hủ tiếu cái chất gì mà dai nhách, nhai hoài cả buổi mà không đứt cọng hủ tiếu mới ớn. Hồi đó, hễ nói tới đồ giả thì trên Chợ Lớn là số một. Họ nhái theo hàng gốc giống như thiệt. Nên mới có thành ngữ quen miệng khi nhắc tới đồ đạc dán nhãn hiệu Hồng Kông nhưng thiệt ra là do Chợ Lớn làm ra, ai ai cũng biết: “Hồng Kông bên hông Chợ Lớn”. Tôi bị lầm đồ giả hoài chú Ba à! Lâu lâu lên trên Sài Gòn một lần thăm mấy đứa cháu, thế nào cũng bị mua lầm đồ dỏm một trận. Mà rủi ro lỡ mua lầm rồi, tôi đố chú đem đổi lại lấy món hàng khác được, tôi bái phục chú sát đất. Nghe nói bây giờ cũng có nước mắm giả nữa. Người ta giả mấy hiệu nước mắm danh tiếng như Phú Quốc, Phan Thiết, Chánh Hương, mà thiệt tình ra chỉ có chút ít nước mắm cốt thôi cho có mùi vị, còn bao nhiêu pha chế thêm bằng nước muối, thêm chút bột ngọt, thêm chút đường rồi bán cắt cổ lấy lời. Tôi ở kinh xáng này thì đỡ khổ là không bị người ta gạt như vậy vì nhà nào tệ tệ cũng ráng mua vài thùng cá linh để ủ nước mắm độ nhựt. Làm như vậy, nước mắm vừa thơm ngon, vừa đỡ lo tiền chạy mua nước mắm hằng bữa biết mệt.

À mà sao tôi lại kể cho chú nghe ba cái thứ giả mạo chi vậy, tôi nghĩ mình lẩm cẩm mà mắc tức cười. Thôi tôi xin chú bỏ qua giùm cái đầu óc già nua quên trước quên sau của tôi nghe chú.  Tôi ngồi ngẫm nghĩ từng tuổi này rồi mà còn có nhiều việc mình nghĩ không cùng, suy không cạn, nói gì tới chuyện thế thái nhân tình. Bá nhơn bá tánh, ai ngược ai xuôi làm sao mình biết được hết phải hông chú Ba? Thôi để kết thúc lá thơ này, tôi gởi lời thăm chú thím và sắp nhỏ mạnh giỏi nhe chú!

 

Cuối thơ

Hai Trầu

Cây sộp và nền nhà cũ

Kinh xáng Bốn Tổng ngày… tháng Hai, năm 2000.

 

Cậu Hai có mấy lời thăm vợ chồng cháu Long,

Xem thêm:   Suy Đi Ngẫm Lại (12/18/2025)

Hèn lâu rồi, cậu không có dìa bên nội thăm bà con, chòm xóm, mồ mả ông bà. Cho nên hôm Tết vừa qua, cậu mới biểu sắp nhỏ bơi xuồng đưa cậu dìa bên Lấp Vò, quê hương của vợ chồng hai cháu để mà thăm nom bà con.

Bà con càng ngày càng xa mà! Thói thường, bà con xa là vì cái lòng của con người ta mau thay đổi. Nhưng riêng cậu thì vì tuổi già sức yếu mà lần hồi rồi xa chị, xa em, xa con, xa cháu có đến năm ba năm là thường lắm. Bởi vậy mà hôm Tết vừa rồi, cậu dìa dưới Lấp Vò gặp lại chị Năm, má của hai cháu, chỉ trách cậu dữ lắm. Chỉ nói “sao cậu đi đâu biệt mù san dã không thấy cậu dìa thăm anh em”. Cậu mới nói “bây giờ em già quá nên cũng ít đi đâu chị Năm ơi”. Chị Năm nói “cậu đâu có già, tui đây mới già, tóc bạc ráo trọi”. Rồi chị em mừng mừng tủi tủi không cầm được nước mắt hai cháu Long Phụng ơi!

Chị Năm năm nay hai đứa bây còn nhớ bà già bao nhiêu tuổi không? Tám mươi mốt tuổi rồi đó hai cháu à! Người nào khi về già con mắt con mũi cũng tèm lem lắm. Chị Năm thì bị cườm khô bên con mắt trái, nên bị chảy nước mắt sống hoài, nhưng sức khoẻ còn mạnh khoẻ lắm. Cậu nhớ hồi ông nội cháu Long còn sanh tiền, hồi đó ổng làm Hương Cả, rất nhơn đức, chị Năm làm dâu dễ ụi hà.

Chị Năm kể, hai cháu có gọi điện từ bên bển dìa, chỉ mừng lắm. Nghe nói cháu Phụng mới mổ và cũng mạnh giỏi rồi, má bây mừng mà cậu cũng mừng. Con cháu ở đây hay ở xứ lạ quê người gì, hễ làm cha mẹ, cô bác mà nghe đứa nào bịnh hoạn là lo, nghe mạnh giỏi là mừng còn hơn ai cho bạc cho tiền. Sống trên đời này mà, hễ có sức khoẻ là vui vẻ rồi, dù ăn muối ăn mắm cũng vui. Còn va vô bịnh rồi, dù tiền của đầy đàng, đầy đống cũng chỉ là trò hư ảo chớ vui sướng gì bạc tiền danh lợi phù phiếm. Phải vậy hông hai cháu?

Dịp dìa dưới Lấp Vò vừa rồi, cậu có gặp Sáu Lân, em của cháu Long, nó cũng mừng lắm. Thằng này cũng sống tạm nghề bán buôn lặt vặt ba cái món chài lưới, lưỡi câu, dây gân, cùng đồ gia dụng đắp đổi qua ngày, cộng thêm cái nghề dạy học phấn trắng bảng đen một đời thanh bần lạc đạo. Cậu có gặp thầy giáo Tông, con của dì Tư bây, cũng làm thầy giáo vườn sống qua ngày, nhưng nó cùng nhậu dữ quá. Kể từ hôm bị bịnh ép tim phải nằm nhà thương trên Long Xuyên mấy bữa, nay nó đỡ đỡ rồi và cũng từ giã ba cái rượu đế nấu bằng bọt đường uống vô nóng muốn bứt cần cổ. Nghe nói vậy cậu cũng mừng cho con cháu. Thằng Lâm, anh ruột của thằng Tông, cũng làm thầy giáo, nhưng lại bạc phần vắn số hồi năm rồi vì chứng đau tim, nghe vậy cậu cũng bủn rủn tay chân mà thương cho em trẻ.

Chợ Lấp Vò xưa – hình tư liệu Hai Trầu

Xa quê hương Lấp Vò dìa kinh xáng Bốn Tổng đâu có xa bao năm đâu mà khi cậu trở lại cái gì cũng biến đổi nhiều, nói gì tới tuổi già, tuổi trẻ.  Cái chợ Lấp Vò hồi đời Tây xùm xụp, bây giờ dỡ bỏ rồi. Thằng Sáu Lân bán hàng ngay góc chợ kế bên nhà lồng mới cất hồi năm kia, cũng phải đóng tiền thế chưn mấy cây mới chen vô được một chỗ kiếm sống hằng ngày. Còn Ông Tú Thường chèo đò hồi đó cõng thằng Long đi hái me nước hoài cũng chết lâu rồi. Bến đò Chợ Cũ thì còn hoài mà nhiều người chèo đò theo ông theo bà cũng nhiều quá mạng.

Xem thêm:   Mưa Đỏ - Chất độc trong từng con chữ

Đời người thì hữu hạn mà thời gian thì vô cùng bất tận mà! Ngày nay cảnh vật đổi dời nhiều quá mạng nhưng cái nền nhà đúc của ông nội cháu thì vẫn còn một đống gạch ngói rêu phong. Bìm bìm hắc sửu bò phủ phục muốn đè mấy bụi chuối lá ta nằm rạp. Cây sộp dưới bờ sông gần nhà anh Tư Nhíu cũng còn sum suê bóng mát. Nhớ hồi thằng Long còn nhỏ cậu hay dắt nó ra đây chọc ổ chim dòng dọc cho nó làm đôi giày mang vô chưn đặng đá banh. Thằng Long nó mê món đá banh kỳ lạ. Rồi sau này học xong sư phạm, ra trường, vô dạy học trong Vị Thanh, Chương Thiện, nó lại mê cái nghề viết văn làm thơ, cậu cũng mừng. Vì nghĩ theo cái dốt của cậu “văn thơ là cái tinh túy”, nên con cháu biết mô phạm mà biết mê thêm văn chương thơ phú là tâm hồn nó trong sáng lắm. Nên ai cũng quý trọng nó. Thời đời trước, rồi tới đời thằng Long, hai cháu chắc biết câu tục ngữ này “phi sư phạm, bất thành phu phụ”. Đó cũng là cái thời kỳ rực rỡ của nghề mô phạm ở miệt vườn mình. Sau này, cậu nghe nói cháu Phụng cũng là cô giáo, cho nên vợ chồng hai cháu thiệt tình là “mô phạm” thương nhau vì tình yêu mà cùng vì tình đồng nghiệp.

Chị Năm kể cho cậu nghe cháu Phụng thương chồng nó lắm, nhứt là thời kỳ sau bảy mươi lăm đi cải tạo dìa, làm ruộng trong ngọn Rạch Dược. Bò càng bò niểng theo chồng lên đồng nhổ cỏ, xịt thuốc sâu, dặm lúa không thua sút ai làm ruộng cố cựu ở ngọn rạch này. Nói lai rai với hai cháu mà lá thơ cũng dài quá. Chị Năm kể cho cậu nghe mấy đứa con của hai cháu học giỏi lắm. Có đứa còn vẽ tranh hoạt họa, vẽ hình nữa, ngoan ngoãn dễ dạy nên cậu rất mừng. Con cháu sanh đẻ ở xứ sở người ta, hai cháu ráng dạy cho nó nói tiếng Việt Nam cho rành để khi dìa thăm ông bà còn biết đường mà dạ, mà thưa, không khéo nó cứ “dét, dét”, “nô, nô” hay “ô kê” hoài là ông bà cỡ Bà nội nó, cỡ cậu chắc là nổ lỗ tai, điếc con ráy chết mất! Khi nào có gặp cháu Giàu, cháu Vệ nói cậu gởi lời thăm vợ chồng hai đứa nó. Cháu Vệ vậy chớ một thời cũng làm giáo sư toán một trường trung học như hai cháu đó chớ chứ đâu phải giỡn. Vậy mà rồi theo chồng lận đận mà đành bỏ nghề.

Ở đời, nghĩ cho cùng, đâu có ai muốn làm nghề gì là được làm nghề nấy suốt đời đâu! Phải vậy hông hai cháu? Riêng cái việc ruộng rẫy của cậu đây mà còn thay mùa đổi giống hoài nói chi đến nghề trí óc cao siêu như mấy cháu! Do đó, cậu thông cảm và hiểu mấy cháu dữ lắm khi “tài bất phùng thời”.

Thôi cậu ngừng cái thơ ở đây nghe hai cháu. Trời cùng khuya lơ khua lắc rồi, muỗi cỏ dậy ổ cắn quá, nên hẹn hai cháu lá thơ sau. Cậu vái trời cho vợ chồng bây và sắp nhỏ bình yên là bên nhà vui rồi! Chị Năm vui, cậu Hai vui và anh em của mấy cháu, chòm xóm cũng vui nữa!

 

Cuối thơ,

HaiTrầu

(còn tiếp)