Mới Tết ta, Tết Tây đấy, mà nay đã vụt trôi qua nửa năm trời. Hình như, tôi có cảm tưởng trái đất ngày một nóng ran hơn và xoay nhanh hơn? Tuyết rã, băng tan từ bao giờ mà tôi cũng đã không hay. Đến nay, nắng và phấn hoa đã rợp trời, bay tứ tán, nồng nàn không chịu được.

Nơi tôi ở là một tỉnh lẻ, thưa vắng người Việt, thành phố Gibbsboro nhỏ xíu, tìm mỏi cả mắt trên bản đồ mới thấy nó nằm ẩn khuất trong tít tắp những rừng cây phong bạt ngàn của tiểu bang nhà vườn New Jersey. Nhưng, tất nhiên, nhỏ thì nhỏ. Ở đấy, vẫn thường hằng diễn ra những chuyển động trong nhịp độ hạn hẹp của nó. Nghĩa là, ngày tháng nào cũng có chuyện của ngày tháng nấy. Ngày mai, ngày mốt hay ngày mốt nữa cũng thế thôi. Không trùng lắp và cũng không tránh được, bởi “đã mang cái nghiệp vào thân”. Như quẩn quanh, vòng vo chuyện đời mà thầy của chúng tôi là giáo sư ngữ học Lê Ngọc Trụ (1909-1979) vẫn dạy, hướng theo cái chủ ý của bậc tiền bối là học giả Phạm Quỳnh (1892-1945).

Thế là chiều tối nay, thay vì đi ngủ sớm, tôi lại bắt tôi cắm cúi, miệt mài vào những con chữ nhảy múa trên trang giấy. Vừa viết lan man, vừa ngẫm ngợi vụn vặt, linh tinh. Ngờ rằng không kịp, để cùng báo Trẻ và độc giả “chiêu niệm” một phiến tài hoa trong làng văn học nghệ thuật chỉ mới ra đi vài ba năm gần đây chăng? Hoặc giả, đáng trách hơn, đã để lỡ hẹn một dịp hiếm hoi, được góp giỗ tròn 3 năm người bạn tri kỷ, với Chị ấy và con cháu trong nhà, bè bạn gần xa. Vẫn biết, mãn tang chứ không phải là đoạn tang, như đã hứa, hôm đưa anh về nghĩa trang – hoa viên Bình Dương, sau ngày anh vĩnh biệt cõi tạm này, ngày 6.5.2020. Tôi nhớ, lúc ấy, chưa xa lắm, Sài Gòn vừa chớm kinh hoàng trước thềm đại dịch covid Vũ Hán.

Người ấy, vừa thân quen với chúng ta, vừa là một trong những người bạn rất tâm phúc giữa ba người chúng tôi: Vũ Ðức Sao Biển, họa sĩ Choé và tôi. Anh là Vũ Ðức Sao Biển: Dạy học, viết văn, làm thơ, đàn hát và báo bổ. Ở chỗ nào, trong cõi ta bà thế gian này, với món nghề nào, thể loại nghệ thuật nào – dù Vũ Ðức Sao Biển (giảng dạy, sáng tác, nghiên cứu, dịch thuật, thuyết minh); dù Ðồ Bì, Ðinh Ba, Mạc Ðại (phiếm luận, trào phúng) – ngòi bút cùng tâm thế của Anh vẫn sôi nổi, độc đáo, thấu lý, đạt tình. Có cả rất nhiều tung tẩy, vi vút, thăng hoa và ngậm ngùi, thấm đẫm triết lý của phương Ðông, của cổ phong, của thơ Ðường. Nói thật lòng, trong chỗ bạn bè thâm tình chí cốt, tôi mới dám nghĩ và dám nói. Rằng có lẽ đến tận cuối đời, Vũ Ðức Sao Biển vẫn không thể thoát ra khỏi cái vòng tử sinh ràng ríu đã thuyền ván đóng đinh vào nhau giữa thân phận “cát biển sao trời” của chàng trai xứ Quảng và nỗi niềm đau đáu “thương những đời như lục bình trôi” của người dân miệt thứ, Bạc Liêu, Cà Mau đất mũi mịt mù… Ðể thương tưởng và đồng cảm với anh, chi bằng đồng hành suốt dọc dài con đường ca hát âm nhạc của anh xem sao. Bởi như tôi nghĩ, chỉ bằng ca nhạc, bằng cung bậc thì ta mới thấy hết “cái tinh anh phát tiết ra ngoài của Vũ Ðức Sao Biển”. Bởi thế, cho phép tôi tạm để riêng  Thu Hát Cho Người – đứa con đầu lòng chào đời đúng lúc anh vừa 18 tuổi, đã sớm nổi đình nổi đám ngay, vào cái chiếu cạp điều, vì nó đã được vinh dự khắc hoạ vào bảng phong thần chói ngời hào quang của “những bài tình ca hay nhất thế kỷ”. Vì một lẽ dễ hiểu, đã có quá nhiều ngưỡng mộ, bình phẩm, ngợi ca dành cho Thu Hát Cho Người. Ngần ấy ngôi sao cũng đủ sáng rồi.

Xem thêm:   Tạ ơn đời, tạ ơn người

Thôi, để gió cuốn đi… muôn phương. Ðể cùng theo bước chân của người trai thương hồ Vũ Ðức Sao Biển, vui buồn với gạo chợ nước sông, lặn lội kinh qua biết bao luồng lạch của đồng bằng “chín con rồng bơi ngược Cửu Long Giang” là những: Ðiệu  Buồn Phương Nam; Tiếng Quốc Ðêm Trăng; Thương Về Cà Mau; Chiều Mơ; Hoa Trang Vườn Cũ; Trở Lại Bạc Liêu; Ðau Xót Lý Chim Quyên; Ảo Ảnh Sương Khói; Bài Ca Vĩnh Long; Bài Thơ Hoa Cúc; Bài Thơ Quê Lụa; Gửi Về Nơi Cuối Ðất; Bên Cầu Thương Nhớ; Bến Xưa; Bài Tango Với Biển;  Bolero Qua Bắc Cần Thơ… Năm, sáu, bảy, tám, chín, mười… mười lăm… Còn nữa… Không lẫn vào đâu được. Rặt ròng quê kiểng những ghe xuồng, bến bãi, nhà vườn… Ði, đến và viết. Mỗi nơi chốn, mỗi dừng chân, là mỗi tiếng đàn, mỗi khúc ca, mỗi gửi gắm, mỗi tâm tình, mỗi kỷ niệm, luyến lưu, đành đoạn khôn cùng…

Tôi không nhớ hết. Chỉ biết, mười năm sau trở lại Bạc Liêu (1985- 1995) là thời gian sung mãn nhất của Vũ Ðức Sao Biển. Hàng loạt ca khúc ra đời, rất đều tay. Nói cho vui, là sinh năm một. Hễ có hàng, là có đông đảo công chúng dang tay, mở lòng, mến mộ. Từ các báo đài, truyền hình địa phương miệt dưới đến những  trung tâm băng dĩa, phim ảnh của phố thị, thành đô, với chất giọng vàng của những tên tuổi lớn, như Anh Ngọc, Nguyễn Chánh Tín, Lệ Thu, Hoạ Mi, Việt Dzũng, Quang Dũng, Hương Lan, Quốc Ðại… cũng đã hoan hỷ đón nhận và thể hiện hết mình. Trong đó, đặc biệt mảng ca khúc viết về chủ đề: tình yêu, quê hương, “nghiêng hẳn về âm hưởng và tình tự của dân ca Nam bộ”; có pha lẫn cung bậc luyến láy từ cây đờn guitar khoét lõm phím của vọng cổ và đờn ca tài tử, đất phương Nam từ những thập niên 1930… Rõ ràng, từ Thu Hát Cho Người đến Ðêm Gành Hào Nhớ Dạ Cổ Hoài Lang, là “một quá trình rất trường đoạn, mà cũng rất đoạn trường”. Từ thời gian, không gian đến tâm thế và tình cảnh. Nói một cách vô tư như người làm thơ bút tre trong cõi nhàn đàm thì Vũ Ðức Sao Biển là một tổng hợp hài hoà của:

Xem thêm:   Cà phê Ba Mén

Nhà văn, nhà giáo, nhà báo, nhà đài,
Cộng bốn nhà ấy, bằng hai nhà…nghèo
!”

Nhạc sĩ Vũ Đức Sao Biển. nguồn: kenhgiaitri24h.com

Vâng, sẽ còn là một thiếu sót lớn, nếu quên không đoái hoài gì đến “một ngón nghề độc thủ” của anh, mà giới phê bình văn học nghệ thuật đã không tiếc lời dọn ra một chỗ ngồi danh giá, không mua được bằng tiền, là “nhà Kim Dung học”! Nói đến Kim Dung, tôi lại nhớ đến cái không khí ngột ngạt của Sài Gòn những buổi trưa ngóng “hàng nóng” từ Cảng Thơm hoặc Ðài Bắc về. Nơi quán xá, chỗ trà dư tửu hậu. Tại giảng đường đại học, góc hè phố, cafeteria, vũ trường, snack bar… võ hiệp Kim Dung phủ sóng… lên tất cả, thậm chí, đánh bạt cả tin tức thời sự về bom rơi đạn nổ trên đầu. Không dám nói ngoa đâu. Suốt con phố toà soạn báo chí Phạm Ngũ Lão, dọc dài đường Gia Long rộn rã hẳn lên với tiếng máy in chạy hết công suất, để kịp ra lò những hàng tươi, hàng nóng: Nào, từ Anh Hùng Xạ Ðiêu, Thần Ðiêu Ðại Hiệp đến Tiếu Ngạo Giang Hồ, Hiệp Khách Hành, Lộc Ðỉnh Ký… Nào, Hàn Giang Nhạn đến Từ Khánh Vân, Từ Khánh Phụng, Phan Cảnh Trung, Vũ Tài Lục… cả một đội ngũ hùng hậu những nhà dịch thuật, bỗng dưng không biết ở đâu xuất hiện, được các chủ báo săn đón, lương hướng hậu hỹ…

Xem thêm:   Suy Đi Ngẫm Lại (11/20/2025)

Riêng hai đứa chúng tôi, giữa lúc tuổi đời còn phơi phới, đã có một hạnh ngộ rất tình cờ, nhưng không dễ gì phôi pha. Tôi còn giữ y nguyên những gì anh tâm tình với tôi, qua Lời Vào Ðề cho tập thơ Hành Hương: “… tháng 6 năm 1968, trong một chương trình của sinh viên, tôi hát với đàn guitare bài Thu Hát Cho Người do tôi viết và Lê Ðình Bảng ngâm bài thơ Ngựa Về Lục Tỉnh của anh từ tập Bước Chân Người Giao Chỉ trên làn sóng truyền hình Sài Gòn… Thế rồi sau đó, chúng tôi xa nhau. Cuộc sống đẩy đưa anh đến bến bờ nào không biết. Khi tôi ra trường về dạy học ở Bạc Liêu, tôi vẫn còn được đọc thơ Lê Ðình Bảng in trên các báo, vẫn còn nghe thơ anh qua những chương trình Tao Ðàn của đài phát thanh Sài Gòn, do nhà thơ Ðinh Hùng phụ trách, với những giọng diễn ngâm chủ lực: Hồ Ðiệp, Hoàng Thư, Quách Ðàm. Thơ còn đó, hồn thơ còn đó, nhưng người thơ nơi đâu? lẽ lúc bấy giờ, Lê Ðình Bảng cũng nghe các ca khúc Thu Hát Cho Người, Chiều Mơ, Qua Một Chiếc Cầu Nhìn Một Dòng Sông của tôi qua làn sóng điện của các đài phát thanh hay trong một vũ trường, một phòng trà nào đó? Nhưng điều tôi về “ở ẩn” tại Bạc Liêu thì chưa chắc anh biết. Cuộc sống quả là một quá trình tan đàn xẻ nghé,bèo dạt mây trôi…”

Và cuối cùng, nói như Cụ Vương Hồng Sển thì “hơn nửa đời hư”. Nghĩa là từ 1968 đến 2023. Tôi đã giải mã được câu hỏi Vũ Ðức Sao Biển đặt ra. Ðó là anh về “ở ẩn” tại Bạc Liêu, là được đêm đêm bơi xuồng ra con nước của Gành Hào để nghe và nhớ Dạ Cổ Hoài Lang, nhớ Ông Sáu Lầu.

FA LĐB