Lữ Quỳnh là bút hiệu của Phan Ngô, sinh năm 1942 tại Thừa Thiên-Huế. Thân phụ mất sớm, lúc một tuổi. Tuổi nhỏ phần lớn sống tự lập. Học sinh Quốc Học-Huế năm 1959-1962. Dạy học, trường Bán công Vinh Lộc 1962-1963. Cựu Sĩ Quan VNCH (Khóa 19 Trường Bộ Binh Thủ Ðức, ngành HC Quân Y) Ðơn vị phục vụ : *Tổng Y Viện Duy Tân – Ðà Nẵng năm 1965-66. *Tiểu đoàn 22 Quân Y (SÐ22BB) -Bình Ðịnh, năm 1967-70, *Quân Y Viện Quy Nhơn, năm 1971-75. Có mười năm sống ở Quy Nhơn. Tại thành phố này, trong một số sinh hoạt, được gặp các anh Quách Tấn, Võ Phiến; các bạn văn Hoàng Ngọc Tuấn, Nguyễn Mộng Giác, Doãn Dân, Trần Hoài Thư, Lê Văn Ngăn, Võ Chân Cửu….
Sau 1975, “Học tập cải tạo” ở trại Cồn Tiên, Ái Tử (Quảng Trị).
Là một trong ba sáng lập viên (gồm Ngy Hữu, Lữ Kiều) đầu tiên của tạp chí Ý Thức, hậu thân tờ Gió Mai ở Huế 1958. Ý Thức qua nhiều giai đoạn in ấn từ roneo, typo đến offset, tòa soạn di chuyển theo chân Ban biên tập. Cho đến 1970, Ý Thức được cấp giấy phép xuất bản tại Sài Gòn, trở thành Tạp chí Bán nguyệt san Văn Học Nghệ Thuật, với số ra mắt phát hành rộng rãi bởi nhà Ðồng Nai, số lượng lên tới 7,000 bản. Lúc này, Nguyên Minh là chủ báo với sự cộng tác của: Châu Văn Thuận, Trần Hoài Thư, Nguyên Thạnh, Ðỗ Nghê, Nguyễn Lệ Uyên, Nguyễn Mộng Giác, Ngụy Ngữ, Trần Nhựt Tân, Nguyễn Ước, Võ Tấn Khanh, Phạm Ngọc Lư, Bửu Chỉ, Huỳnh Hữu Ủy, Trần Hữu Lục …..Tạp chí Ý Thức ra được 24 số thì đình bản.
Từng cộng tác: Tạp chí Mai (1961), Phổ Thông (1960), Bách Khoa (1962), Khởi Hành, Thời Tập (1972), Ý Thức (1970), Nhật báo Công Dân-Huế (1960-61) mà tiền nhuận bút đã trở thành sinh hoạt phí của tác giả trong những năm cuối trung học [Ở trong nước]. Và Văn Học, Hợp Lưu, Khởi Hành, Tân Văn…[Ở hải ngoại, từ 2001]
Tác phẩm đã xuất bản:
– CÁT VÀNG, Tập truyện (NXB Ý Thức, Sài Gòn 1971; NXB Văn Mới tái bản, Calif. 2006)
– SÔNG SƯƠNG MÙ, Tập truyện (NXB Ý Thức, Sài Gòn 1973)
– NHỮNG CƠN MƯA MÙA ÐÔNG, Truyện vừa (NXB Nam Giao, Sài Gòn 1974; NXB Thư Quán Bản Thảo tái bản, NJ. 2010)
– VƯỜN TRÁI ÐẮNG, Truyện dài (Đăng nhiều kỳ trên tạp chí Ý Thức, Sài Gòn 1971-1972)
– SINH NHẬT CỦA MỘT NGƯỜI KHÔNG CÒN TRẺ, Tập thơ (NXB Văn Mới, Calif. 2009).
– ÐI ÐỂ THƯƠNG ÐẤT NƯỚC MÌNH, Ký (NXB Văn Mới, Calif. 2012)
Ðến Hoa Kỳ năm 2000, Hiện định cư cùng gia đình ở San Jose, California.
Thơ Lữ Quỳnh
Mùa đông, những ngày bình yên
Bắt đầu những ngày bình yên
Ngắm mùa đông
Ấm áp trong tóc em
Trong ánh mắt reo vui
Bữa cơm chiều.
Lần đầu tiên ở xứ người
Hiểu thế nào hạnh phúc
Khi cỗ máy ầm ào hằng đêm
Cùng ánh đèn cao áp
Không còn giành giựt với trái tim
Nhịp đập.
Mùa đông
Cây thông Giáng sinh
Lấp lánh quả cầu giấy bạc
Nhớ quê nhà những chiều mưa
Trên sân gạch nở đầy
Bong bóng nước
Em mặc áo len vàng
Tung tăng cánh đồng ký ức
Cánh đồng mùa xuân
Hoa cúc vàng nở rực.
Mùa đông này
Trời trong veo và rất lạnh
Hai bàn tay buốt cóng
Cầm nỗi nhớ nhà
Ði lang thang
Qua Tự Do, Lê Lợi
Ngừng Givral
Nhìn bạn bè đứa còn đứa mất
Rượu tràn ly
Nói cười
Chuyện thiên đường địa ngục.
Lần đầu tiên
Hiểu thế nào bình yên
Là lúc
Nỗi cô đơn dịu dàng
Cùng mùa đông
Bắt đầu thắp
Những ngọn nến hồng
Trên mặt đất.
Giấc mơ
Chiếc piano treo ngược trước khán phòng
Hoàng tử bé một mình trên sân khấu
Hát trường ca Dã Tràng
Có tiếng vỗ tay râm ran
Trên từng hàng ghế trống
Lạnh lẽo gió thiên đường
Những ngọn nến thắp bằng ánh sao
Soi trái tim khô
Ðang nảy mầm bất tử
Bầy quạ giăng hàng trên dây thép
Những nốt nhạc đen giữa hoàng hôn
Chập chờn trùng vây mộ địa
Sao em giờ đây phố thị
Một mình cười nẻ răng
Với giọt nước mắt hồng?
Chép một tờ kinh
tặng anh Đinh Cường
mở trang kinh. chỉ thấy mây
thiền tâm thanh tịnh niệm ngay di đà
tranh hoàng hôn. cảnh tuyết sa
giọt vàng giọt đỏ. nhạt nhòa giọt tôi
mở tờ kinh. chẳng có lời
quang minh thanh tịnh chiếu soi cõi người
giấc yên. trời lặng. xanh trôi
chép mừng tranh mới. sáng ngời chân như
LQ