Thảo Trường là nhà văn xuất sắc nổi tiếng từ trong nước ra đến hải ngoại. Ông mất năm 2010, đến nay là đã 15 năm. Ông đã tham dự chiến tranh suốt thời tuổi trẻ, đi tù dưới chế độ CS suốt 17 năm, sống đời lưu vong ở Mỹ. Thảo Trường có một sức viết có thể nói là mạnh mẽ. Sau đây chúng ta tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp văn chương của ông qua đoạn viết của nhà phê bình Đặng Tiến và bài phỏng vấn của nhà văn Phạm Phú Minh.

ĐẶNG TIẾN: Nhà văn Thảo Trường tên thật là Trần Duy Hinh, sinh 1936 tại Nam Định, nổi tiếng tại Miền Nam trước 1975, đã qua đời tại Quận Cam, California, Hoa Kỳ, ngày 26-8-2010 vì chứng ung thư gan, thọ 74 tuổi. Sĩ Quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, cấp bực thiếu tá, ông là một trong những người tù lâu năm nhất: 17 năm cấm cố qua 18 trại giam từ Nam ra Bắc.

Di cư vào Nam năm 1954, ông vào trường Sĩ Quan Thủ Đức, phục vụ ngành pháo binh vùng giới tuyến và bắt đầu viết văn. Truyện ngắn đầu tiên Hương Gió Lướt Đi đăng trên tạp chí Sáng Tạo, Sài Gòn, ký bút hiệu Thao Trường, đã gây ngay được tiếng vang trong giới độc giả trẻ thời đó; tập truyện đầu tay Thử Lửa, 1962, vẫn ký Thao Trường, có tầm quan trọng đặc biệt: vừa là một thành tựu nghệ thuật, vừa đánh dấu một giai đoạn tạm gọi là “tiền chiến tranh” qua tâm lý một lớp thanh niên thành thị: lý tưởng, tin vào tình tự dân tộc không phân chia Nam Bắc thành chiến tuyến …

Xem thêm:   Chia tay nhà văn Tiểu Tử

Sau đó Thảo Trường chuyển sang ngành An Ninh Quân Đội, tìm hiểu chiến tranh sâu hơn ở khắp chiến trường Miền Nam. Ông gần gũi với các nhóm trí thức độc lập Hành Trình và Trình Bày, đặt lại vấn đề chiến tranh, mong chiến tranh chóng chấm dứt trong công lý, tình thương và hòa giải. Khuynh hướng này được diễn tả qua những truyện nổi tiếng: Người Đàn Bà Mang Thai Trên Kinh Đồng Tháp, 1964, đã được dịch ra tiếng Pháp trên tuần báo công giáo Témoignage Chrétien, phổ biến trên cả thế giới, hồi đó. In lại trong tuyển tập Le Crepuscule de la Violence (Hoàng Hôn của Bạo Lực), 1970. Đồng thời ông còn có truyện Viên Đạn Bắn Vào Nhà Thục, nguyên tên là Nhãn Hiệu Mỹ, vì có câu “đạn này nhãn hiệu Mỹ” bị kiểm duyệt đục bỏ, khiến giới bình luận xếp tác phẩm ông vào loại phản chiến, trong tư trào công giáo tiến bộ.

Nhà văn Thảo Trường 

Tổng cộng tại Việt Nam trước 1975, ông đã xuất bản 14 tập truyện; và là tác giả truyện Bà Phi đăng hằng ngày trên báo Tiền Tuyến; truyện ăn khách, dài khoảng 1000 trang.

Ra tù 1992, sang Mỹ đoàn tụ với gia đình 1993, ông tiếp tục viết, in được 8 cuốn. Mới nhất là tuyển tập Những Miểng Vụn của Tiểu Thuyết, 2008. Truyện về sau thường kể lại đời sống cơ cực, phi lý trong các trại giam: “tất cả đau khổ tàn nhẫn, xót xa mà anh em trong tù phải chịu, những cảnh trớ trêu mình gặp, hay sự dốt nát tội nghiệp của cai tù… đều đòi hỏi mình để tâm phân tích” (Thảo Trường trả lời phỏng vấn ngày 4-8-2008).

Xem thêm:   Không gian tiệm nước. Sài Gòn tạp văn

Đặc biệt trong phong cách Thảo Trường là lối kể chuyện, ly kỳ, hấp dẫn. Giai đoạn đầu thì hành văn dịu dàng, tình tứ, giai đoạn cuối: ngôn ngữ góc cạnh, chua cay, nhưng luôn luôn điểm nét hóm hỉnh. Chất “uy-mua” nâng giọng nói lên một tần số cao hơn chính luận.

Sáng tác Thảo Trường trải qua đúng nửa thế kỷ và 3 giai đoạn khác nhau, vẫn có sợi chỉ mành thông suốt: đó là tấm lòng với con người, đất nước và lẽ phải.

Một tâm hồn nhân hậu và phóng khoáng như thế, mà phải trải qua vòng 17 năm lao lý qua 18 trại giam, sau khi chiến cuộc đã chấm dứt, là điều giới làm văn học không hiểu.

Ngày nào đó, chính trị phải trả lời văn học…

PHẠM PHÚ MINH phỏng vấn Thảo Trường (trích đoạn):

Tôi bắt đầu thích thú với công việc viết văn làm thơ từ thời đi học, tức thời trước năm 1954 tại thành phố Nam Định. Lúc đó tôi học Trung học, và có một ông thầy là cụ Trần Văn Hào, tôi đã được nghe thầy giảng mấy trăm bài Đường thi và Truyện Kiều cùng rất nhiều ca dao tục ngữ. Từ thời ấy tôi đã ao ước trong đời tôi sẽ làm một điều gì đó giống như những điều mình đã học. Mới 15, 16 tuổi mà tôi đã tính… ra một tờ báo!

Sau đó vào Nam tôi thất bại trong việc học hành, vì tôi đi có một mình, ông cụ tôi mất và mẹ tôi lại ở lại miền Bắc. Sau khi thi rớt Tú Tài, tôi đi vào quân trường Thủ Đức. Ra trường Thủ Đức tôi đóng ở Quảng Trị, vùng vĩ tuyến 17, thời gian này tôi bắt đầu cầm bút, và cuốn truyện đầu tiên của tôi là tập Thử Lửa, viết cách đây hơn 50 năm.

Xem thêm:   Cha tôi chết không cần quan tài

Tổng kết việc viết lách, thì tôi đã xuất bản 14 cuốn truyện tại Việt Nam trước 1975; tại Mỹ từ 1993 đến nay đã in được 8 quyển. Còn một số bản thảo viết tại Việt Nam mang đi Mỹ được thì tôi chưa in. Vừa rồi tôi tập họp một số truyện từ trước đến giờ để in trong tuyển tập “Những Miểng Vụn Của Tiểu Thuyết.”

Sở dĩ gọi là “miểng vụn” vì khi ở trong tù tôi có dự tính khi ra khỏi tù sẽ viết một cuốn trường thiên tiểu thuyết thật đầy đủ về quãng lịch sử vừa qua, thế mà khi qua Mỹ rồi, cuộc sống ở đây khiến tôi chỉ thích viết truyện ngắn. Tuy là truyện ngắn mà truyện nào tôi cũng muốn chứa đựng trong đó cả một giai đoạn lịch sử của cuộc chiến. Suốt mười mấy cái truyện ngắn tôi cứ làm đi làm lại như vậy, mà vẫn không thành một truyện dài như tôi đã mong ước. Các truyện ngắn ấy tôi coi như là những miểng vụn của cái trường thiên tiểu thuyết tôi định làm mà không làm được, vì thế tôi gọi là “Những miểng vụn của tiểu thuyết.” PPM

N&BH