Những ai từng sống ở Miền Nam sau 1975 hẳn không thể nào quên được những vụ đốt sách kinh hoàng diễn ra ngay giữa lòng thành phố. Song Thao, Trần Hoài Thư và nhiều nhà văn khác đã tả lại cảnh tượng bi thương và phẫn nộ này.
Một nhà báo viết trên trang facebook.
“Hầu như toàn thể nhân loại văn minh coi việc đốt sách vở là một hành động man rợ. Vậy mà cuộc phần thư ác ôn này được cả hệ thống tuyên truyền của Nhà nước nhảy xổ vào đánh phèng la cổ võ. Báo Sài Gòn Giải Phóng số ra ngày 25/5/1975 tường thuật sự việc: “Ngày 23/5/1975, trên nhiều đường phố Sài Gòn, “khí thế ra quân” của chiến dịch vô cùng sôi nổi: “Đoàn thanh niên nam nữ đi qua các đường phố và hô to nhiều khẩu hiệu đả đảo văn hóa ngoại lai đồi trụy mất gốc phản động. Đi đầu là xe phóng thanh với một biểu ngữ dài có ghi: ‘Đội thanh niên sinh viên học sinh xung kích bài trừ văn hoá dâm ô phản động’. Theo sau là sinh viên, học sinh sắp hàng bảy, hàng tám xuất phát từ trụ sở của lực lượng thanh niên tự vệ thành phố, số 4 Duy Tân. Đoàn diễn hành kéo dài có đến hàng cây số đường, tất cả mọi người đều có một tấm biểu ngữ trên tay. Ngay sau cuộc tuần hành trên đường phố của hàng chục ngàn thanh niên vệ binh, đồng bào và các tiệm sách đã đem nộp cho đội Quận 7 một số lượng sách báo đồi trụy phản động, tất cả là mười ba xe ba gác. Ngoài ra các hàng sách bày bán trên hai lề đường Lê Lợi, Công Lý cũng tự nguyện dọn sạch và đem nộp. Trên đường Hai Bà Trưng cũng có ba nhà sách tự động đem nộp trên hai mươi cuốn. Đặc biệt, cùng ngày này, 22/5/1975, nhà sách Phúc Bài, 186 Nguyễn Thiện Thuật, Sài Gòn đã tự nguyện đem nộp cho Hội Bài trừ Văn hoá đồi trụy phản động bốn ngàn cuốn sách các loại”.
Nhà văn PHAN TẤN HẢI mới đây trong bài viết Đọc Ngô Thế Vinh Sau Thời Đốt Sách cũng đã nhắc lại cái thời đen tối ấy
Tôi luôn luôn nhớ tới những trận đốt sách ở Miền Nam Việt Nam sau năm 1975, mỗi khi nhớ tới các công trình nghiên cứu của Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác, Ngô Thế Vinh… Họ không phải là những người chữa lửa. Thực sự, họ cũng là nạn nhân của một thời hậu chiến, khi các tác phẩm của họ cũng bị chính quyền mới thu vét để đốt. Họ là những người nhặt lại từ các trang giấy bị thiêu rụi để thu thập, tái hiện và lưu giữ các tác phẩm văn học Miền Nam trước 1975.
Nhà thơ Trịnh Y Thư trong bài viết nhan đề “Văn Chương Trên Giàn Hỏa Thiêu” in trên Việt Báo ngày 25/02/2022 ghi rằng Học giả Nguyễn Hiến Lê thuật lại chuyện đốt sách trong bộ Hồi Ký của ông xuất bản năm 1988 tại Mỹ, như sau:
“Một trong những công việc đầu tiên của chính quyền [Cộng sản] là hủy tất cả các ấn phẩm (sách, báo) của bộ Văn Hóa ngụy, kể cả các bản dịch tác phẩm của Lê Qúy Đôn, thơ Cao Bá Quát, Nguyễn Du; từ điển Pháp, Hoa, Anh cũng bị đốt. Năm 1976 một ông thứ trưởng văn hóa ở Bắc vào thấy vậy, tỏ ý tiếc. Nhưng ông thứ trưởng đó có biết rõ đường lối của chính quyền không, vì năm 1978, chính quyền Bắc chẳng những tán thành công việc hủy sách đó mà còn cho là nó chưa được triệt để, ra lệnh hủy hết các sách ở trong Nam, trừ những sách về khoa học tự nhiên, về kỹ thuật, các từ điển thôi. Như vậy, chẳng những tiểu thuyết, sử, địa lý, luật, kinh tế, mà cả những thơ văn của cha ông mình viết bằng chữ Hán, sau dịch ra tiếng Việt, cả những bộ Kiều, Chinh Phụ Ngâm… in ở trong Nam đều phải hủy hết ráo…”
Và Phan Tấn Hải đã tuyên dương công cuộc phục hồi văn học Miền Nam từ đống tro tàn -đặc biệt là những công trình của Ngô Thế Vinh:
Hậu quả những cuộc đốt sách là ký ức văn học sẽ bị xóa trắng trong lịch sử dân tộc. Bên thắng cuộc muốn viết gì thì viết, muốn vu khống bên thua cuộc những gì cũng được, bởi vì chứng cớ văn học, chỉ còn là tro bụi.
Tuy nhiên, nếu bạn để ý, nhà văn/bác sĩ Ngô Thế Vinh nhiều năm nay đã viết về một di sản văn học Miền Nam Việt Nam mà nhà nước CSVN đã cố ý biến thành tro, thành than, thành bụi sau các cuộc đốt sách. Nhiều bài đã được nhà văn Eric Henry dịch sang tiếng Anh. Tác phẩm tiếng Anh này nhan đề “Creative World Of South Vietnam And Overseas 1954 – To The Present – Volume 1” đang lưu hành trên mạng Amazon từ tháng 7/2025, trên đó ghi tác giả là Ngô Thế Vinh và dịch giả là Eric Henry. Sách có thể tìm ở đây:
https://www.amzn.com/B0FJ2Z9ZRH/
Nơi trang Mục Lục (trang 9) và nơi Lời Giới Thiệu của Dịch Giả (trang 13-19), cho biết các bài viết là về các văn nghệ sĩ Miền Nam VN và tác phẩm của họ (nơi đây, chúng ta tóm lược như sau):
– Mặc Đỗ (1917 – 2015): nhà báo, tiểu thuyết gia, nhà văn truyện ngắn và dịch giả.
– Như Phong (1923 – 2001): tiểu thuyết gia, chuyên gia về các vấn đề cộng sản ở Bắc Việt.
– Võ Phiến (1925 – 2015): nhà tiểu luận, nhà văn truyện, nhà sử học văn học và biên tập viên.
– Linh Bảo (1926 – 2024): một trong những nhà văn nữ đầu tiên của VN, tiểu thuyết gia, nhà văn tài năng, nhà báo tự do, nhà hoạt động nữ quyền.
– Mai Thảo (1927 – 1998): tiểu thuyết gia, nhà văn truyện ngắn, nhà thơ và là người sáng lập kiêm biên tập của tạp chí tiên phong Sáng Tạo.
– Dương Nghiễm Mậu (1936 – 2016): tiểu thuyết gia, nhà văn truyện ngắn, nhà tiểu luận.
– Nhật Tiến (1936 – 2020): tiểu thuyết gia, nhà văn truyện ngắn, nhà viết kịch.
– Nguyễn Đình Toàn (1936 – 2023): nhà thơ, tiểu thuyết gia, nhà văn truyện ngắn, nhạc sĩ và người dẫn chương trình phát thanh.
– Thanh Tâm Tuyền (1936 – 2006): tiểu thuyết gia, nhà văn hư cấu và nhà viết kịch, và cũng là một nhà thơ.
– Nguyễn-Xuân Hoàng (1937 – 2014): tiểu thuyết gia, nhà văn truyện ngắn, nhà tiểu luận và biên tập viên.
– Hoàng Ngọc Biên (1938 – 2019): nghệ sĩ, họa sĩ, nhà thơ, tiểu thuyết gia, học giả về Proust, dịch giả và nhạc sĩ.
– Đinh Cường (1939 – 2016): họa sĩ, nhà thơ và giảng viên hội họa.
– Nghiêu Đề (1939 – 1998): họa sĩ, nhà thơ.
– Nguyên Khai (1940 –): họa sĩ.
– Cao Xuân Huy (1947 – 2010): sĩ quan TQLC, nhà văn, hồi ký chiến tranh.
– Phùng Nguyễn (1950 – 2015): nhà văn truyện ngắn, nhà tiểu luận và blogger.
– Phạm Duy (1921 – 2013): nhạc sĩ, nhà viết lời, nhà nghiên cứu âm nhạc và người viết hồi ký.
– Eric Henry (1943 –): học giả người Mỹ chuyên về văn hóa TQ và VN, dịch giả của tập sách này. Đã thực hiện bản dịch tiếng Anh bốn tập hồi ký của Phạm Duy.
– Phạm Biểu Tâm (1913 – 1999): bác sĩ phẫu thuật, giáo sư y khoa, Khoa trưởng trường Đại học Y khoa Sài Gòn.
– Phạm Hoàng Hộ (1929 – 2017): nhà khoa học – thực vật học.
Như thế là xong Tập 1.
Dự kiến, Tập 2 đang tiến hành dịch. Nhưng các bản tiếng Việt đã được nhà nghiên cứu văn học Ngô Thế Vinh hoàn tất. Dự kiến (và dĩ nhiên, có thể sẽ có thêm) cuốn sách thứ hai về Chân dung Văn Học Nghệ Thuật & Văn Hóa đề cập đến 17 nhân vật khác (Nguyễn Tường Bách & Hứa Bảo Liên, Hoàng Tiến Bảo, Tạ Tỵ, Trần Ngọc Ninh, Lê Ngộ Châu, Nguyễn Văn Trung, Dohamide, Lê Ngọc Huệ, Nghiêm Sỹ Tuấn, Đoàn Văn Bá, Mai Chửng, Trần Hoài Thư & Ngọc Yến, Phan Nhật Nam, Võ Tòng Xuân, Trần Mộng Tú và John Steinbeck).
Nghĩa là, sau khi nhà nước CSVN đốt sách, nhiều thập niên sau đã có một số tàn tro được nhà nghiên cứu Ngô Thế Vinh ghép lại để thực hiện 2 tập Chân dung Văn Học Nghệ Thuật & Văn Hóa, mà dịch giả Eric Henry đã dịch xong và phát hành Tập 1.
Sẽ có một chút ngậm ngùi, khi bạn mở ra các trang sách của “Creative World Of South Vietnam And Overseas 1954 – To The Present – Volume 1” nơi trang 11 (sau trang Mục Lục và trước Lời Giới Thiệu của Dịch Giả.
Hai câu trích của Nguyễn Du và Vũ Hoàng Chương nơi trang 11 đều được Eric Henry dịch sang tiếng Anh.
Câu thơ của Nguyễn Du là: Văn chương vô mệnh lụy phần dư.
Câu thơ của Vũ Hoàng Chương là: Thi thư dù lửa bạo Tần có thiêu?
Cả hai câu đều nói tới những cuộc đốt sách. Dĩ nhiên, không phải chuyện tự nhiên trang sách nóng tới độ tự bốc lửa để thành tro.
Lệ thường, khi nhắc tới bài thơ Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du, thường được các nhà văn Việt Nam trích dẫn là hai câu cuối: Bất tri tam bách dư niên hậu / Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như? (Không biết rồi ba trăm năm sau, thiên hạ có ai sẽ khóc Tố Như (Nguyễn Du) này chăng?). Tuy nhiên, nhà văn Ngô Thế Vinh lại trích câu: Văn chương vô mệnh lụy phần dư (Văn chương không có số mệnh mà cũng bị liên luỵ, bị đốt đi và còn sót lại một vài bài).
Hiển nhiên, chúng ta tin rằng những cuộc đốt sách ở Việt Nam sau năm 1975 hẳn là một nguyên do để nhà văn Ngô Thế Vinh thực hiện các bài chân dung văn nghệ sĩ và tác phẩm này. Nhưng tác giả Ngô Thế Vinh chỉ chọn viết về các tác giả ông trực tiếp có giao tình, quen biết. Do vậy, bút pháp họ Ngô khi viết không hề có vị trí xa cách, không hề có kiểu giáo sư văn học nghiên cứu nhìn từ xa. Tất cả đều có nhiều hình ảnh mà nhà văn Ngô Thế Vinh hoặc chụp chung, hoặc hình riêng tư khác được gia đình các văn nghệ sĩ trong sách cung cấp. Nghĩa là, sách này có rất nhiều chi tiết riêng, và thân cận.
PTH