Nhà văn Trần Hoài Thư, một trong những người lính VNCH viết văn đã từ giã cõi đời ngày 27 tháng 5 năm 2024 tại New Jersey, Hoa Kỳ, hưởng thọ 82 tuổi. Mới đó mà đã một năm. Bóng câu cửa sổ!
Trần Hoài Thư, tên thật là Trần Quí Sách, sinh năm 1942 tại Đà Lạt. Tuổi thơ ông sớm cơ cực sau khi cha mất, lớn lên trong hoàn cảnh thiếu thốn. Năm 1967, nhập ngũ khóa 24 SQTB Thủ Đức. Phục vụ tại đại đội 405 Thám kích sư đoàn 22 bộ binh trong 4 năm bị thương 3 lần. Sau đó về làm phóng viên chiến trường ở Quân Khu IV trong 2 năm. Sau biến cố 1975, ông bị CS đưa vào trại cải tạo hơn 4 năm. Năm 1980, ông vượt biên và định cư tại Mỹ.
Tưởng chừng cuộc đời lưu vong sẽ làm người ta nguội lạnh với chữ nghĩa, nhưng Trần Hoài Thư lại chọn con đường ngược lại. Sau khi nghỉ hưu vào năm 2004, ông cùng vợ sáng lập tạp chí Thư Quán Bản Thảo. Không ồn ào, không quảng bá, không thương mại. Chỉ âm thầm in ấn, biên tập, phát hành chủ yếu để tặng. Một hành vi tưởng chừng nhỏ bé nhưng mang ý nghĩa vô cùng lớn: gìn giữ ký ức văn học miền Nam trước 1975 trong lúc mọi thứ đang dần trôi vào quên lãng.
Thư Quán Bản Thảo? Thư là bút hiệu của ông Quí Sách. “Thư quán” gợi một thư phòng xưa, nơi người ta đọc sách, viết văn, đàm đạo – thanh tịnh, nhã nhặn, tách biệt với ồn ào phố thị. Còn “bản thảo” là những trang viết nguyên thủy, mang hơi thở đầu tiên của sáng tạo. Gộp lại, *Thư Quán Bản Thảo là một tuyên ngôn thầm lặng: đây là nơi lưu giữ ký ức văn chương, một ngôi đền nhỏ dành cho chữ nghĩa miền Nam.
Tôi biết ông cũng từ một kỷ niệm nhỏ. Ngày 10 tháng 7 năm 2012, tôi nhận được email ông gửi: “Anh đã đăng bài này ở đâu chưa? Nếu chưa, xin anh dành cho *Thư Quán Bản Thảo* ưu tiên được đi trước. Có lẽ sẽ đi ngay vào số tháng 10, đang chuẩn bị. THT.”

Trần Hoài Thư
Tôi nghĩ ông chỉ muốn bài mới, dù trước đó ông từng đăng một truyện cũ của tôi – “Chiếc áo bà ba hình chữ hỉ”, không biết do ai gửi đến. Tôi hiểu đó là cách ông tuyển chọn bài viết. Nhưng thú thực, bài cũ hay bài mới, miễn là còn giá trị, thì vẫn nên được ai chưa đọc được đọc. Văn chương, một khi đã viết ra và vượt qua được lớp bụi thời gian, là của chung, không còn cũ mới nữa.
Cũng phải nói thật, tôi không hoàn toàn đồng ý với cách ông làm báo. Ông có phần “tiêu chuẩn kép”: bạn cũ trước 1975 thì ông lặn lội vào thư viện Cornell lục tìm để in lại tác phẩm, còn bạn mới thì ông đòi bài mới tinh. Tôi thì nghĩ, hay dở mới là vấn đề, không phải thời gian viết. Cái hay thì đọc bao nhiêu lần cũng thấy hay, đọc lần sau lại có thể thấy hay hơn lần trước; cái dở thì dù mới cũng không cứu nổi.
Cũng vì vậy mà từ đó, tôi không cộng tác thêm với *Thư Quán Bản Thảo* nữa. Tình văn nghệ giữa tôi và ông ngắn ngủi. Nhưng khi nghe tin ông mất, tôi vẫn thấy chạnh lòng.
Thư Quán Bản Thảo không đẹp đẽ hào nhoáng. Bìa in đơn sơ, giấy thường, ảnh đen trắng. Nhưng mỗi số là một kho báu. Có những số dành trọn cho một tác giả – như Nguyễn Thị Thụy Vũ v.v. Có những số chuyên đề – như về lính chiến, về ký ức chiến tranh, về tạp chí văn nghệ thời xưa. Trần Hoài Thư không chỉ in lại những bài xưa cũ, mà còn chú giải, viết lời giới thiệu, tìm gặp người thân tác giả, bổ sung tiểu sử, đối chiếu văn bản. Ông làm việc như một học giả, dù không hề mang danh học giả. Ông là người canh giữ kho chữ – đúng như cách ông tự mô tả trong một lá thư riêng. Canh giữ để khỏi mất. Canh giữ để khỏi bị bóp méo. Canh giữ như một hình thức kháng cự trước sự lãng quên.
Ông không chỉ là người viết. Ông còn là người giữ lửa. Giữa thời buổi công nghệ, khi người ta đọc trên màn hình nhiều hơn trên giấy, ông vẫn tin vào con chữ in, vào mùi mực, vào cảm giác cầm một cuốn tạp chí trong tay. Với ông, in một bài viết ra là một cách ghi ơn tác giả, và cũng là cách gìn giữ trí nhớ cho mai sau.
Tạp chí Thư Quán Bản Thảo không bán, chỉ tặng. Vì bán chắc cũng không ai chịu bỏ tiền ra mua! Nên ông Trần Hoài Thư làm Thư Quán Bản Thảo là làm công ‘chùa’. Nhưng không vì vậy mà bài vở thiếu phẩm chất .Tuy nhiên cũng có cái dở là ông hay quên cám ơn tác giả viết bài ‘mậu lúi’
Trong số những nhà văn di tản sau 1975, Trần Hoài Thư chọn con đường không ồn ào. Không chính trị. Không thù hận. Ông viết để nhớ. Viết để lưu giữ. Viết để không quên những người đã nằm lại nơi rừng sâu núi thẳm. Những người chỉ mới mười chín, đôi mươi. Những người từng mơ giấc mơ hòa bình, nhưng bị chiến tranh bóp nghẹt giữa chừng.
Tôi nhớ một đoạn thư anh Đoàn Xuân Hoà của tôi, một người lính TQLC, viết từ Núi Ba Hồ gửi về Sài Gòn:
“Anh đóng trên cao điểm 457, núi Ba Hồ, Quảng Trị mùa gió Lào khô khốc… Phải bò, trườn xuống thung lũng lấy nước. Nhưng ráng học nha em! Cuộc chiến này rồi cũng tàn chớ. Mình về xây dựng lại!” Nhưng chiều hôm sau đã nhận tin báo tử. Cái chết đến nhanh hơn niềm hy vọng. Quan tài phủ cờ vàng ba sọc đỏ. Cạnh bên là xác của 24 người lính cùng đại đội. Mặt trời lặn đỏ phía chân mây. Má khóc sưng con mắt.
Trần Hoài Thư hiểu và cảm được những điều đó. Tuy nhiên ông không làm thơ khóc than, cũng không viết văn để trút hờn giận. Ông chỉ lặng lẽ giữ lại tất cả: thơ, truyện, ký, bài phỏng vấn, bài tưởng niệm… Từng con chữ, ông giữ như giữ một chứng tích; giữ một phần linh hồn dân tộc.
Nay ông đã ra đi. Tôi và ông chỉ gặp nhau trong một đoạn tình bạn văn ngắn ngủi Ông mất Thư Quán Bản Thảo sẽ chết theo ông. Còn tôi, dù chỉ vài lần gởi bài cộng tác, cũng thấy hân hạnh vì được ghi tên trong một góc nhỏ của hành trình ấy của ông.
ĐXT