Nhà thơ Võ Tấn Khanh còn có bút hiệu Tôn Nữ Hoài My, sinh năm 1942 ở Thuận Hòa (Thuôn), Ninh Thuận, quê gốc ở Phan Rang.
Ông làm thơ viết văn từ năm 1959. Trước năm 1975, cùng với Nguyên Minh, Ngụy Ngữ, Huỳnh Hữu Võ, ông là thành viên nhóm thực hiện bán nguyệt san Ý Thức có trụ sở tại 11 Nguyễn Thái Học, Phan Rang.
Ông còn có thơ văn đăng trên các tạp chí Văn, Bách Khoa, Thư Quán…
Tác phẩm đã xuất bản: Chim bay về đâu (truyện)
Phương xưa (thơ),
Sương khói trăm năm (thơ, 2007)…
Thơ Võ Tấn Khanh nằm trong lối cổ nhưng ngôn ngữ có nhiều nét mới và gợi cảm, gần gũi với người đọc. Sau đây là một vài bài tiêu biểu. SAO KHUÊ
Hoài My, khi về lại
Như giọt khói theo tháng ngày lây lất
Rơi muộn màng trên lối cũ ngu ngơ
Tôi mở cánh cửa tình không chất ngất
Lòng rưng rưng nghe một chút không ngờ.
Ngàn thơ dại ủ trong từng khe lá
Cũng động cành bay kiếm bạn quen xưa
Và điệu hát đã chia lời buổi nọ
Chợt bùng lên quay quắt nhặt khoan đưa.
Sương nắng gội chưa mờ hơi thở biếc
Tình thiên thu trăm bến rộng xa nguồn
Tôi đã tát cạn đời mình không tưởng tiếc
Cầm bằng như gió tạt qua truông.
Người độ ấy đã qua mùa khôn lớn
Ðường trăm năm đã mấy bận chia xa
Tôi thắp tuổi hong trên bờ nắng muộn
Nghe giọt tình ngấm nhẹ mấy làn da.
Cây nhớ lá đã đôi lần khóc gọi
Ðường nhớ chân từng lớp cuội rang sầu
Chim nhớ bạn quẩn quanh tìm, cánh mỏi
Tôi nhớ người như núi thẳm sông sâu.
….
Thôi đã lỡ, dẫu trăm đời, cũng đợi
Vạn lần không như một lần không
Trên nỗi nhớ đã cao mù ngọn khói
Ngọn buồn đưa hiu hắt tạt qua lòng.
1972
Đà Lạt, mưa
Ở đây lạnh núi mưa rừng
Ta nghe đời lụn trên từng tấc da
Nhìn đâu cũng thấy quê nhà
Sao trong gang tấc vẫn xa nghìn trùng.
Ở đây ngày tháng như bưng
Giam ta chết ngột trong từng ủ ê
Chim thiêng có nhớ đường về
Vất vơ nẻo nọ ê chề lối kia.
Ở đây đồi rợp cây chia
Với đêm thú lạc tru khuya ớn người
Lửa khêu chưa ấm nụ cười
Chút tình cố quận tơi bời ruột gan.
Ở đây trong nỗi bàng hoàng
Ta qua lại giữa trăm ngàn dửng dưng
Thương đời thắt ruột khom lưng
Trăm năm phận số còn chung gánh sầu.
Ở đây ngày ngắn đêm thâu
Ta thu thân đợi bên cầu nhiễu nhương.
Những ngày đau nằm ở thư viện
Duy Tân
Nằm đây bốn phía hôi mùi sách
Ta thức qua ngày thức hết đêm
Buồn cũ vai đời chưa giũ sạch
Bệnh trời theo tuổi cứ cao thêm
Mười năm lòng ngấm nhiều dâu bể
Chính khí cùn, gươm nhụt, sức hèn
Ta bấm gan cười xem vận lỡ
Ðổi đời giá trị trắng thành đen
Mười năm ta tạm làm ly khách
Quê nhà đôi bận lỡ cơ duyên
Tay không vẫn chắp hồn muôn trượng
Mọt sách mà khinh chữ thánh hiền
Nằm đây cổ đắng đầu khô cứng
Dỗ lòng trăm bận vẫn chưa quên
Quanh ta chữ nghĩa lên mùi mốc
Thiên hạ ngoài đang cơn đảo điên
Ðập vỡ ly không lầm chén rượu
Chập chờn vị thuốc tưởng hơi men
Cơm áo rơi theo đời thất bát
Thau vàng lẫn lộn bước bon chen
Bè bạn ai còn lai vãng mấy
Bên nhau lòng lạnh buốt như tiền
Cửa khép đêm đêm phòng bất trắc
Kín lời sợ đến cả anh em
Nằm đây gẫm lại từng hưng phế
Nghe xót lòng theo mỗi biến thiên
Tình nghĩa đã dâu cồn bể vực
Hề chi ta một kiếp rong hèn
Cuộc thế đã theo đời mạt pháp
Vật vờ nhân ảnh điệp trùng đêm
Trăm năm dẫu đến ngàn năm nữa
Danh phận bèo mây vẫn bấp bênh
Nằm đây bốn phía hôi mùi sách
Ta thức cho vơi cạn nỗi niềm
Chữ nghĩa bấy nhiêu tầng oan nghiệt
Tấc lòng thiên cổ cũng vô duyên!
1976