Trên trang này, chúng ta đã một lần gặp Huy Phương. Ông khởi viết năm 15 tuổi (1952), đăng thơ và tùy bút trên tuần báo Đời Mới. Và đã có hai tác phẩm: Mắt Đêm Dài (thơ) năm 1960 và Mây Trắng Đồn Xa (truyện) năm 1966. Đến Mỹ, ông tích cực hoạt động trong ngành báo chí, truyền thanh và truyền hình. Sở trường về Phiếm và Tạp Ghi. Đã xuất bản trên 10 tác phẩm.
Gần đây Huy Phương cho in “Chúc Thư Của Một Người Lính Chết Già” -một thi phẩm. Ở đây vẫn còn chút hơi thơ lãng mạn của thời Đời Mới và Mắt Đêm Dài. Ngoài ra phần lớn tập thơ in đậm dấu vết thời thế từ 1954 ra đến hải ngoại bây giờ. Nào chiến tranh, lui binh, tù cải tạo, vượt biên, cuộc sống nơi chốn định cư tại Hoa Kỳ. Trước hết ông trách mình không trọn tình trọn nghĩa với cha mẹ, anh em, bè bạn, không tròn nhiệm vụ trai thời chiến, bỏ nước ra đi. Sau nữa, ông trách ai bỏ quên đồng đội mưu cầu giàu sang và tự do cho riêng mình. Huy Phương thành thật nghĩ rằng mình không xứng đáng với màu cờ tổ quốc. Ở Huy Phương yêu ghét phân minh, được diễn tả trên những trang thơ. Ngoài ra thơ Huy Phương đây đó còn vương nỗi hoài cảm và tiếc nhớ bâng khuâng. Nhờ vậy được ưa thích hơn. Những người đồng hội đồng thuyền với Huy Phương khi đọc Chúc Thư… sẽ thấy thấm thía nỗi đời và tìm thấy ở đây giọng sử thi bi tráng của một thời. SAO KHUÊ
trang sách đời
Tuổi già chợt đến như trang cuối
Thấm thoắt còn đâu những chữ đầu
Ngày tháng tàn theo trang sách mỏng
Dầy chăng còn có những niềm đau.
Ví như mở lại trang sách cũ
Ðổi thay gì được một đôi câu
Cha mẹ sinh mình không nghĩ tựa
Ðời ta khi hết bạt về đâu ?
12 / 98
nhớ Huế
Mùa này nước Hương Giang có mặn
Muối đại dương có thấm vào sông?
Từ ngày anh đoạn tình bỏ Huế
Nguồn xa đã lạc mấy trăm dòng.
Mùa này Huế còn mưa tầm tã
Thương quê xưa vẫn nỗi đói nghèo
Anh ở nơi này vùng nắng ấm
Vẫn nhớ hoài đời mẹ gieo neo.
Mùa này quê có còn bão lụt
Chén cơm em còn độn sắn khoai?
Trên tiệc rượu người con xa xứ
Men nồng nào lẫn nước mắt cay.
Mùa này Huế có còn phượng đỏ
Tiếng ve nào gọi nỗi buồn xa
Nơi này cả một trời hoa tím
Nhớ em xưa tiếng guốc học trò
Mùa này Huế có còn áo trắng
Em hiện thân làm bướm tan trường
Thương ngày tháng một thời niên thiếu
Huế bây giờ – Huế đã mù sương.
Huế của tôi giờ đâu còn nữa
Cảnh vô hồn khuất nẻo người xưa
Hồn cô tịch hoàng thành hoang phế
Tiếng chim khuya gọi bóng trăng mờ.
chúc thư
(trích đoạn)
Tôi người lính già ở xa tổ quốc
Xa chiến trường lưu lạc tới đây
Nơi quê người sương pha tuyết đổ
Mang nỗi đau con ngựa lạc bầy.
Ngày tôi bỏ đi, bạn bè đồng đội
Vẫn hiên ngang cho đến phút sau cùng
Ðã tự hiến thân mình cho tổ quốc
Thắng hay thua thì cũng vẫn can trường.
Không phải chỉ chịu ơn người đã chết
Tôi như còn mang món nợ nước non.
Chết không nghĩa là đã tắt hơi thở
Sống đôi khi cũng có nghĩa chết mòn.
Khi tôi chết ván hòm xin đậy nắp
Có vui chi nhìn người lính chết già
Hổ thẹn đã không tròn ơn nước
Tiễn tôi chi, thêm phí một vòng hoa.
Hãy quên tôi, người lính già lưu lạc
Ðừng phủ lá cờ tổ quốc cho tôi
Anh em tôi trong những giờ tuyệt lộ
Nằm lại bờ lúc chiến hạm ra khơi…
bài tháng tư
Lũ chúng ta, ván cờ dở cuộc
Tướng bỏ thành, phá tượng, buông xe
Ta thân tốt chân trời góc bể
Nỗi qua sông chẳng hẹn ngày về.
Thuở đứt gánh tóc còn xanh mướt
Giờ nhìn nhau, bạc trắng phơ phơ
Hai mươi năm đốt đời trai trẻ
Buổi sa cơ, lỡ một thế cờ.
Mỗi nghìn đêm còn đau giấc mộng
Mỗi sáng nhìn đất nước khuất xa
Thân tráng sĩ – sức tàn lực kiệt
Mộng thời trai như bóng mây qua.
Những hố bom ngày xưa đã lấp
Biển muôn trùng xanh những nương dâu
Chiến trường xưa đã mờ dấu tích
Sao lòng ta nặng vết hằn đau
Người lính già tuổi chiều bóng xế
Chẳng còn xưa, chẳng có mai sau
Những tháng ngày sầu niềm đất khách
Vết thương lành, vết sẹo còn đau.
Ôi tháng tư, đốt lò hương cũ
Khóc người xưa, nhỏ lệ cho ta
Người đã khuất – còn nguyên khí phách
Ta sống còn – tháng đoạn, ngày qua.
4/04