Vậy là đã vào thu. Nhìn ra ngoài trời, thấy nắng nhạt màu hơn, đôi khi trời nhiều mây, thoáng điểm vài hạt mưa thưa. Có tiếng sấm ì ầm từ xa, những bông sage tím của mùa hè qua run rẩy trong chiều. Chợt nghĩ tới quê nhà, ở nơi xa ấy mùa thu đã bắt đầu từ cả tháng nay, khi bầu trời chập chùng mây và những cơn mưa trút xuống, đâu đó ở Hà Nội có gió heo may và màu hoa cúc vàng bên giậu.

Vâng. Vậy là đã vào thu. Nhưng mùa thu thì làm gì? Trời đất này chỉ gợi hứng cho người ta đi ăn đi chơi thôi. Hay ra Starbucks ngồi uống cà phê nhớ về một thời sớm trưa Phố Cổ cùng nhân vật trong kinh kịch và cậu Hoàng Tử Bé? Cũng hay đấy, nhưng ngồi mãi một mình thì e mau chán. Thôi, ta đọc chơi vài trang văn vậy, như thế sẽ sống thêm được nhiều mảnh đời và tâm cảnh ở nơi này nơi khác.

Xin bắt đầu với Mai Thảo. Mai Thảo nổi tiếng về tùy bút và thơ. Đây ta hãy xem tác giả Đêm Giã Từ Hà Nội viết về thơ Bùi Giáng.

Một buổi chiều, tôi cùng Thạch Chương và Thanh Tâm Tuyền đến chơi một người bạn. Ở đây, chúng tôi tình cờ gặp lại nhà thơ Bùi Giáng. Với tôi, cõi thơ Bùi Giáng là một trong những cõi thơ bát ngát nhất hiện nay của thơ ta. Thơ Bùi Giáng là một vực thẳm không cùng. Một cánh rừng dầy đặc.

òa tới, làm nhạt nhòa Xuân Diệu. Nó vụt qua làm mất biến Xuân Sanh. Giẫm đạp lên mọi thể loại ngôn ngữ tĩnh tại, sáng hồng, đôn hậu, toàn vẹn, đã xong, thơ Bùi Giáng là cái tang trống kinh dị treo căng trên hai đầu cọc nhị trùng: từ một băng hoại tận cùng tới một thăng hoa chói lọi. Thơ nguy nga như thế mà con người bệnh quá. Mỏi nhọc, già yếu, Bùi Giáng ngồi đó, bóng chiều lãng đãng, như hình như bóng, mang trên hình hài âm u cái hiện tượng dị thường của một cõi ngôn ngữ khi bình lặng thì thiêm thiếp, hư không, khi dấy động là dấy động bàng hoàng một trời giông bão. Chừng như tôi điên, một năm vài tháng, Bùi Giáng nói. Thế nhưng khổ nhất cho Bùi Giáng lại là lúc tỉnh. Tỉnh thức, ra khỏi những quằn quại nghẹn ngào, những nhức nhối đốt lửa, Bùi Giáng mới biết là thật nhiều điều, dầu biết phải nói, chẳng nên nói ra bằng giấy trắng mực đen. Nhưng rồi những cơn lốc kinh hoàng hệt như những cơn say sượng sần mê ngất chụp bắt lấy. Và khi đó thi sĩ lại nói hết. Nói hết những niềm quái dị, những nỗi hoang vu bất chợt sáng ngời, bằng một Ánh Sáng Lạ, trong tâm linh và tiềm thức. Tôi nhớ chiều hôm đó, Thanh Tâm Tuyền, yêu mến Bùi Giáng lắm, đã giải thích cái trạng thái bất bình thường nơi Bùi Giáng như một hòa nhập quá thể say đắm, quá thể trầm trọng với ngôn ngữ. Rằng đó tại vì anh coi trọng ngôn ngữ quá. Rằng anh muốn phá tan ngôn ngữ còn muốn phá tan chính Cuốn Sách là cái biểu tượng cái thể tích thường hằng được chấp nhận cho ngôn ngữ, cho thơ.

Bây giờ tới Vũ Khắc Khoan, nha các bạn. Vũ khắc Khoan nổi tiếng từ Thằng CuộiThần Tháp Rùa. Kịch Thành Cát Tư Hãn của ông được diễn nhiều lần ở Sài Gòn ngày trước và là một áng văn chương tuyệt tác. Nguyễn mê ‘Thành Cát Tư Hãn’ và mê văn của Vũ Khắc Khoan từ hồi còn là sinh viên trường Luật ở Sài Gòn, những năm 1958-1960. Vũ Khắc Khoan qua đời ngày 12 tháng 9 năm 1986 tại Minnesota. Hình ảnh Vũ Khắc Khoan là một khắc họa độc đáo trong văn chương và ngoài đời. Thanh Tâm Tuyền gọi ông là Tuyết Ngưu. Đoạn văn sau đây trích từ Đoản Văn Xa Nước của Vũ Khắc Khoan, An Tiêm xuất bản năm 1995 ở hải ngoại.

Xem thêm:   Có ai thấy lá vườn tôi

Và …“Tôi bước ra khỏi quán rượu, đi về phía sông Seine. Lúc bấy giờ vào khoảng 3 giờ chiều một ngày cuối tháng 10, có mặt trời. Tôi nhìn xuống mặt sông: Mây trời trôi theo những gợn sóng nhỏ. Bỗng dưng tôi thấy cần phải ném một cái xuống mặt sông trước mặt, khuấy động một tác phẩm Vĩnh Ấn đang hoàn thành. Châm vội một điếu gauloise. Rít nhanh một vài hơi. Và vứt mẩu thuốc xuống dòng sông. Nhè nhẹ, rất nhè nhẹ, bước vào thế giới Thanh Tâm Tuyền.

Vứt mẩu thuốc cuối cùng xuống dòng sông

lòng mình phơi trên đá

Con thuyền xuôi

Chiều không xanh không tím không hồng

Những ống khói tàu mệt lả”

Nhìn quanh chỉ thấy người. Vui, trẻ, đẹp. Những ống khói tàu mệt lả mờ trong sương, tận cùng chân trời ký ức, trở lại vẫn một hình ảnh cũ. Lê Quang Luật, buổi trưa đó. Tôi đi lại quãng đường vừa qua, trở về nơi quán cũ. Đẩy cửa bước vào:

– Một vin chaud.

Rượu nho đỏ hâm nóng, một chút đường – và một chút bột quế. Trời lạnh -lạnh Hà Nội, lạnh Đà Lạt. Tôi nâng ly rượu tự mời. Nốc cạn. Đáy ly còn chút cặn. Tôi dựa vào tường, nhồi thuốc vào tẩu, nghe ấm hơi men từ đan điền dâng thẳng lên đầu. Khu chợ Mouffetard bỗng trở thành khu chợ Bến Thành. Đâu đây văng vẳng nhịp song loan cầm trịch 6 câu vọng cổ. Chiếc cyclo thả giữa gió trời, bắt con đường Lê Văn Duyệt, xuyên qua ngã tư Hồng Thập Tự, ven chợ Đũi, ngoẹo Phan Thanh Giản, rẽ sang tay trái Duy Tân, đi thẳng, đi thẳng, đậu lại cuối dường. Bên kia đường là tiệm phở gà. Trong tiệm vẫn Luật và Khoan tôi. Lúc bấy giờ đã 2 giờ trưa. Đã 1975.

– Làm bây giờ?

Bây giờ -2 giờ trưa, 1975- bây giờ thì cũng lỡ rồi. Ban Mê Thuột mất. Nắng xế ngang vào quán phở vắng tanh. Bao giờ đến lượt Pleiku?

Tôi nâng ly rượu, lưỡi nghe tê đắng. Ngẩng lên nhìn Luật.

– Tình hình… sao mày?

thấy ngay là thừa. Tình hình ra sao, ai mà không biết, kể cả người vừa đặt câu hỏi là tôi.

Luật trả lời bằng một câu chửi thề:

– Tiên sư chúng nó!

Chúng nó Cộng Sản và ….

– Lũ em mày ở Pháp ra sao?

Lũ em Luật sống ở Pháp tôi biết nếu Luật muốn thì cái việc sang Pháp để sống không phải là khó.

Luật nhìn tôi khá lâu, cái nhìn làm men rượu bốc hết khỏi đầu. Trong một lúc, trước mắt tôi, không là một người thấm mệt. Mà Luật của 1945, Luật của 1954.

– Tao ở lại

Đoạn văn trên thật là hay. Văn Vũ Khắc Khoan bao giờ cũng hay. Sắc nét, mạnh mẽ và trí tuệ. Với Vũ Khắc Khoan, tạm ngưng ở đây.

Xem thêm:   Mùa thu và… phở

 Bây giờ ta đọc tùy bút Võ Phiến, cũng như từ phố xá, vỉa hè và quán rượu về một nơi êm đềm và thân thuộc hơn. Võ Phiến viết về Thơ Ba Mén của Bình Nguyên Lộc và cô Quì:

“Bình Nguyên Lộc có tập truyện bằng văn vần, gọi là Thơ Ba Mén. Truyện ấy hình như chưa bao giờ xuất bản. Thơ Ba Mén thơ thế nào, tôi không biết. Chỉ tình cờ biết qua lời khai từ, trên vài chục câu. Và chỉ nhớ vài câu:

Ghe ơi, vài bữa ghe v

Nhắn người dưới ruộng, cô Quì còn không?

“Ghe ơi”, ghe ấy tức những chiếc ghe thương hồ đậu ở bến sông Ông Lãnh một buổi sáng mưa dầm. Trong thời chiến tranh, chốn nông thôn bất an, lắm kẻ bỏ quê lên tỉnh sinh sống. Trong số những kẻ ấy có người đã yên thân làm ăn ở Sài Gòn, nhưng thân yên lòng chưa chịu yên. Những hôm mưa rơi nhẹ nhàng, tiết trời lành lạnh, người nọ ra bến sông, ngồi uống tách cà phê nóng ở một quán nhỏ, nhìn lũ ghe thương hồ từ dưới quê chở nông phẩm lên bán nhớ về làng xóm cũ. Ghe đi vài bữa ghe về, mà mình thì biền biệt, nhớ cô Quì muốn chết. Một ông khách bới tóc (tức cũng người gốc quê) ngồi bên cạnh liếc sang có trông thấy người nọ khóc trộm. Thảm quá.

bấy nhiêu tôi không quên được thơ Ba Mén. Mà tôi bị thơ Ba Mén ám ảnh.

Áng chừng người nọ bỏ quê ra đi cũng không lâu mấy. Cô Quì vẫn còn gọi được là Quì thì xa cách có lâu. Xa như chúng ta -một số đông đảo trong chúng ta, những kẻ rời bỏ xóm làng từ tuổi đôi mươi cho tới tận cuối đời- xa đến thế thì nhớ về người cũ đâu còn nỡ gọi nhau là! Từ lục tuần, thất tuần về sau, dẫu có còn đấy các Quì cũng thành ra cụ Quì cả thôi.

Đàng này, mới tách lìa nhau đấy đã mếu máo, đã rối rít: -Cô Quì còn không? – Làm chả còn. Lo sao lo lắm vậy.

Ôi, cô Quì còn không? Cô Quì của Bình Nguyên Lộc, của Võ Phiến. Cô Quì của tôi, của bạn, của non nửa triệu người đang lưu lãng khắp cùng trái đất. Cô Quì còn không? Vào thu rồi đấy, nắng đã nhạt màu, tiết trời se lạnh, chim đã bỏ đi xa, lòng chợt nhớ cô Quì đến xốn xang, cùng bông súng bông sen nơi ao hồ cũ.

Xem thêm:   Tạ ơn đời

TN