Cây xanh là bạn của mặt đất, và cũng là bạn của người. Có khi người đã nhập vào cây và là một trong cõi đời phù hư này. Chẳng hạn như trong truyện ngắn Người Con Gái Trong Thung, Hải Miên đã viết rất cảm động về đời người đời cây: “Theo tục lệ của người trong thung, khi trong nhà có một người lớn tuổi về với đất thì người đàn bà của gia đình đó phải trồng xuống một loại cây lâu năm kịp trước khi người kia im hơi tắt tiếng. Linh hồn của người chết sẽ không chịu vùi sâu dưới ba tấc đất cùng thể xác của họ mà thoát ra, nhập vào thân cây ấy trong vườn nhà. Với những người trẻ, linh hồn sẽ bay đi nương vào một cây trên rừng. Hằng năm vào ngày Mồng Một Tết, có lễ thăm cây. Trước hết là thăm cây trong vườn nhà và sau đó toả lên rừng. Giờ ông nội đã trú ẩn trong cây mít trước ngõ, bố ở cây xoài sau nhà và mẹ ở cây xoan cạnh bờ mương.” Và Tim Nguyễn cũng đã kể cho bạn đọc về một vài cây đặc biệt: Cây cô đơn, cây giày, cây thụ cầm. Sau đây là những đời cây khác. Trước khi kể, Tim Nguyễn xin thưa: chuyện là có thật, không phải do Tim Nguyễn bịa ra đâu nha.
Cách đây không lâu, tại Indonesia có một cây cổ thụ tuổi thọ hơn 100 năm được các cảnh sát địa phương bảo vệ nghiêm ngặt nhằm tránh sự phá hoại của người Hồi giáo. Duyên do là khi xây dựng con đường xe buýt nối liền thủ đô với các khu vực lân cận, ủy ban giao thông công chính Jakarta đã quyết định không cưa gẫy cây đa cổ thụ có tuổi thọ hơn 100 năm vì cho rằng nó làm đẹp cảnh quan và rất quan trọng với môi trường. Tuy nhiên, một số thanh niên Hồi giáo đã liên kết lại, phản đối điều này và khẳng định, các viên chức không dám phá vì họ tin dị đoan, lo sợ có một sức mạnh huyền bí nào đó đang ẩn nấp dưới tán cây. Để chứng minh điều ngược lại, nhóm thanh niên đã cưa gẫy một nửa thân cây đa, gây mất mỹ quan cho con đường và ảnh hưởng tới sự sinh tồn của cây cổ thụ. Cuối cùng, chính quyền Jakarta đã phải thiết lập một hàng rào bảo vệ xung quanh cây đa, đồng thời chỉ thị một cảnh sát địa phương đứng làm vệ sĩ. Oai chưa!
Những năm ở Đà Lạt, thỉnh thoảng Tim có đi thăm các vườn mận ở Trại Hầm. Chẳng phải vì ai, mà chỉ vì… mận. Tưởng tượng một vùng trắng hoa mận mùa xuân và biếc xanh pha tím vào mùa thu -biếc xanh của lá và tím của trái trên cành. Mận Trại Hầm nổi tiếng là ngon. Thế nhưng, dưới chân đèo Prenn cũng có một vườn mận trái ngon tuyệt vời. Không biết người Đà Lạt còn nhớ không những trái mận thơm ngày ấy -những trái mận mới hái từ trên cành xuống còn vương phấn và mùi của lá cây. Tưởng tượng bàn tay một cô gái cầm trái mận tím mọng, đưa lên ngửi, cái mũi xinh xinh hơi chun lại. Và rồi hé miệng, những chiếc răng trắng cắn sâu vào trái mận… Ôi chao, ngon quá là ngon! Sẽ không bao giờ nữa ta được ăn những trái mận như thế trong đời. Ở Mỹ cũng có mận (plum), trái thật to nhưng dường như không có được vị ngọt và thơm của mận Đà Lạt. Có lẽ do lòng tư hương mà bất cứ thứ trái cây nào của quê nhà (xoài, chẳng hạn) cũng đều tuyệt vời, không nơi nào bằng.

Cây đa cổ thụ hơn 100 tuổi ở Jakarta – nguồn NBC
Nói đến mận, cây mận, Tim vừa đọc được một bài viết rất hay và cảm động của Thái Kim Lan từ bên Đức gửi qua. Sau đây là một vài trích đoạn gởi đến bạn đọc.
“Khi chúng tôi dọn nhà đến vườn này, cây mận đã đứng đó, sau khóm trường xuân (Efeu), mở cửa ra vườn đi mấy bước là đã đến cạnh gốc cây, và chén trà sớm bên hiên thường có bóng nhánh mận gần nhất nghiêng vào lân la gợi chuyện.
“Không biết nó đã bao xuân, có vừa bằng tuổi cây mận trẻ trong khu vườn hoang dại của xứ Schwaben xa xôi ấy, vào một đêm “trăng xanh tháng Chín, dưới gốc mận còn xuân… tôi ôm nàng… như một giấc mơ êm…” của B. Brecht một thời với mối tình đầu? Tôi không muốn nói mận xứ Bayern không tình tứ thơ mộng bằng mận Schwaben. Nhưng về chuyện nói, hát ra thơ, thì hoa mận vườn Obermenzing chúng tôi mới chính là đám mây trắng “thiên tải không du du” của cả trời thơ Âu Á.”
Và Thái Kim Lan cho biết cây mận trong vườn là hình ảnh rất đỗi thân quen với người Đức. Nó vương bóng dáng phụ nữ Tây phương dưới mái nhà, trong thiên nhiên. Âm vang “mận” thấp thoáng hình ảnh người phụ nữ Đức vào ra chăm sóc vườn tược với má hồng, môi thắm, nước da trắng mướt, tóc vàng lúa mì, khoẻ mạnh, vừa đảm vừa ngoan…
Thái Kim Lan cũng cho biết: Nhờ mẹ, cây mận trong vườn còn đứng đó và đưa chùm lá lẫn với chút trời xanh rung động trong chén nước trà buổi sớm mai… Cô viết: “Này đây… nếu nhớ không lầm, từ đó, cây mận dần dà không còn là cây mận Đức ở vùng Obermenzing xứ Bayern thuần chất. Lúc nào không hay, kể ra đã hơn mấy mươi năm trời, cây mận như lấy vóc dáng của bà cụ có đầu tóc bới với đường rẽ lệch xanh mướt, mỗi sáng là người đầu tiên ra vườn, siêng năng công việc không thua phụ nữ Đức. Chỉ khác, mỗi sáng mai, cái ngẩng nhìn đầu tiên ấy, hình như chỉ có cây mận biết, mong ngóng một điều chi nơi giọt nắng hừng đông trên đọt cây.”
Và dưới mắt Thái Kim Lan, cây mận tuồng như vươn cao lên một chút, để hứng cho được giọt nắng đầu tiên từ phương Đông xa vời vợi ấy đưa vào mắt người có cái cổ trắng thanh tao đang ngóng đợi. Mẹ đã thương cây mận hết lòng… và mận cũng thương…” Nhưng rồi mẹ ra đi về miền mây trắng miên viễn. Nhớ mẹ, và thương cây mận, Lan ra vườn mỗi sáng.

Đó, cây mận của Thái Kim Lan. “Khi tôi dọn nhà đến vườn này, cây mận đã đứng đó, sau khóm trường xuân…” Thế nhưng khi Kathleen -trong trường thiên The Red Moon của nhà văn cựu chiến binh Sam Stone- vâng, khi Kathleen dọn đến ngôi nhà ở Wallessa thì chưa có cây cam. Chính cô đã đi mua một cây cam nhỏ xíu từ nursery mang về và tự tay trồng, bỏ công tưới bón. Lúc đầu, cây èo uột, xanh xao, tưởng chừng như không sống nổi. Thế rồi nhờ bàn tay chăm sóc và thương yêu của Kathleen, cây dần lớn lên, xanh cành xanh lá. Thì cây cũng như người ấy mà, lớn lên nhờ tình thương và sự trìu mến. Xuân qua, hạ tới, thu sang… Một năm trôi qua, cây cỏ trong vườn vươn cao xanh tốt. Một đêm, ngồi trước nhà ngắm trăng, chợt cô ngửi thấy mùi hương thơm ngát, quen thuộc như ngày nào ở quê nhà. Mùi hương hoa cam… Cô chạy ra sau vườn nhà thì thấy cây cam cô trồng nở đầy hoa trắng dưới trăng. Kathleen đứng sững, trí óc như lạc vào cơn mơ đầy ánh trăng. Từ đó, mỗi chiều khi từ tiệm về, cô dẫn con ra vườn chơi với cây cam, tưới nước, bắt sâu, tỉa lá cho nó. Dần dần hoa cam rụng cánh và kết trái. Mùa đầu, không nhiều, và trái cũng không ngọt, nhưng cô yêu và quý biết bao. Mùa sau, trái sai hơn, trĩu vàng cành. Thế nhưng, cuộc đời cô không được như cây cam. Hạnh phúc gia đình dần dần rạn vỡ, cho tới lúc không còn cứu vãn được. Và cô ra đi, cùng các con. Để cây cam lại trong khu vườn không còn bóng cô. Gần đây, em cô qua thăm, đem cho cô một giỏ cam vàng óng. Cây cam vẫn nhớ cô và mỗi mùa tiếp tục ra hoa, kết trái. Nhìn những quả cam từ vườn xưa, nước mắt cô ứa ra.
Vâng, như các bạn đã thấy, đời cây cũng như đời người. Có khi con người còn ít được may mắn hơn cây. Và cây, như cây mận trong vườn Thái Kim Lan, một phần nào mang hình bóng con người. Thế nhưng, cây thốt nốt lại mang một biểu tượng khác, một ý nghĩa khác. Nó nhẫn nại đứng giữa trời. Tim nghĩ tới những cây palmier trong bài thơ Nghĩa Trang Các Thủy Thủ của một nhà văn Pháp. Với Tim, cây thốt nốt là hình ảnh quen thuộc của thời thơ ấu. Bạn ơi, ấu thời của Tim đi giữa những bãi bờ hoang vu. Thời nhỏ, ở Khongsédone bên Lào, Tim thường đứng ngước cổ nhìn lên cây thốt nốt, tự hỏi sao cây cao đến thế, tàn lá xanh tươi rộng ngợp của nó e đụng tới trời xanh. Những cây thốt nốt dọc đường lên Saravane cũng thế, và những cây trên đường Tim bám xe đò đi Attapeu cũng không khác, đó là những người bạn nói với Tim bao ý nghĩa cao đẹp của cõi người. Tim thích nhất là vào mùa trái thốt nốt chín rụng. Đêm nằm lơ mơ ngủ, có khi Tim giật mình thức dậy vì tiếng trái thốt nốt chín rụng bên vườn hàng xóm. Buổi sáng mở cửa nhìn sang, quả nhiên những trái thốt nốt chín vàng nằm trên mặt đất. Rồi một ngày kia, phần bọc ngoài trái sẽ thối rữa ra, chỉ còn trơ lại cái hột và khi nó nẩy mầm, lũ trẻ đập vỡ ra ăn phần cơm bên trong, thơm và ngọt lịm. Do bởi lòng yêu cây như thế, nên đọc đoạn văn của Phan Thị Như Ngọc viết về cây thốt nốt, lòng riêng lấy làm thích thú:
“Những cây thốt nốt trên đường qua Tri Tôn, Tịnh Biên đối với em thật dễ thương. Cây cao mươi thước, thân to, xòe những chiếc lá xanh rộng bản có nhiều nét gợi nhớ lá cọ Trung du miền Bắc. Mỗi sáng, lúc tan sương, trèo thang lên hứng lấy nước ngọt từ chỗ mở miệng sẵn trên đọt cây, theo ống dẫn- cũng bằng tre gai đã hun khói- chảy ra ngoài…

Cây Thốt nốt Vĩnh Long – nguồn vneconomy
“Nước thốt nốt uống tươi, ngon ngọt không thua kém dừa miệt vườn. Còn nếu không, có thể đem cô lại. Từ tháng Chín tới tháng Tư âm lịch là mùa kéo đường. Du khách đi ngang những vùng đông đồng bào Khơ me ở Vĩnh Long, Trà Vinh, Châu Đốc sẽ thấy lửa bập bùng quanh các chảo lá sen. Bên trong nước thốt nốt sôi sục, tỏa thơm, rồi cạn dần, kéo tơ
“Châu Đốc xưa nay nổi tiếng với những “cây đường” thốt nốt- gọi vậy vì hình dáng dài và tròn như khúc cây. Mỗi “cây đường” đều có lá thốt nốt khô bọc bên ngoài, trong ruột xếp sát 3, 4 khoanh đường trắng ngà, béo ngậy, ngọt thanh. Pha ấm trà quạu, nhấp chung trà, bẻ miếng đường thốt nốt nhai từ từ. Vị ngọt tan dần trong họng, chuyện đang đắng mấy cũng thành ngọt, nhờ đường… Em đã láu táu hớt lời người đồng hành già như vậy, khi ngồi dưới bóng cây thốt nốt ban trưa. Nhưng trật lất, chuyện vẫn đắng khiếp- chuyện trong ký ức ông ta về người bạn bị Khmer Đỏ giết chết dưới cây thốt nốt bên đất bạn Xứ Chùa Tháp. Không phải xử bắn đâu, mà đập bằng cuốc. Khi ông trở lại đất Miên tìm bạn thì chỉ thấy dưới gốc những cây thốt nốt la liệt những đầu lâu và lóng xương người. Không biết cái nào là của bạn ông.”
Chuyện của cây, cũng như chuyện về những đời người, không bao giờ dứt. Xin hẹn với các bạn một kỳ sau.
TN









