Hoa Kỳ luôn là một xã hội có nhiều cộng đồng người di dân. Nhưng di trú vẫn còn là một chủ đề được tranh luận và chưa được hiểu rõ.

Khi các chính trị gia nói về di dân, bình luận của họ thường dựa trên những chuyện tưởng tượng, thay vì thực tế. Dưới đây là một số tưởng tượng hoặc quan niệm sai lầm:

Lầm tưởng số 1: Người di dân không muốn học tiếng Anh.

Hoa Kỳ là nơi có nhiều người di dân quốc tế hơn bất kỳ quốc gia nào khác. Gần 20% tổng số người di dân toàn cầu cư trú tại Hoa Kỳ. Ngày nay, người di dân và con cái của họ học tiếng Anh với tốc độ tương đương với người Ý, người Ðức và người Ðông Âu di cư vào đầu những năm 1800. Và từ năm 2009 đến 2019, tỷ lệ người di dân có thể nói tiếng Anh “rất tốt” đã tăng từ 57% lên 62%.

Lầm tưởng số 2: Người di dân không được giáo dục.

Trong 5 năm qua, 48% người di dân nhập cư được xếp vào nhóm có tay nghề cao – nghĩa là họ có bằng cử nhân trở lên. Chỉ 33% người sinh ra ở Mỹ có bằng cử nhân trở lên. Hơn nữa, việc theo đuổi giáo dục đại học được coi trọng và khuyến khích trong các cộng đồng người di dân, đặc biệt là những người đến từ Nam Á. Những người di dân từ các quốc gia này ưu tiên cho sự hiếu học và niềm vui đến từ những thành tựu giáo dục.

Xem thêm:   Lịch cấp Chiếu Khán Di Dân, Lao Động, Tôn Giáo và Đầu Tư tháng 5, 2024

Lầm tưởng số 3: Cách tốt nhất để thích nghi là tiếp nhận văn hóa Hoa Kỳ.

Trong nhiều thập niên, các nghiên cứu về sự tiếp nhận và biến đổi văn hóa đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc người di dân tiếp nhận văn hóa Mỹ. Các chính trị gia, nhà trị liệu và nhà giáo dục mắc kẹt trong sự hiểu biết hạn hẹp về sự hòa nhập văn hóa. Họ khuyến khích những người di dân để thích nghi với nước sở tại bằng cách tự tách bản thân họ ra khỏi nền văn hóa của quê hương họ.

Sau đó, vào năm 1987, nhà tâm lý học John Berry đã đề khởi một mô hình hòa nhập văn hóa với các chiến lược mới. Theo Berry, những người di dân nên cố gắng giữ lại các yếu tố của bản sắc văn hóa ban đầu của họ, đồng thời chấp nhận một bản sắc văn hóa mới bổ túc cho văn hóa và các giá trị của Mỹ.

Ngày nay, mô hình của Berry là mô hình thường được sử dụng nhiều nhất để hiểu về quá trình hòa nhập văn hóa. Tuy nhiên, cũng có sự di dân xuyên quốc gia, nhờ vào internet. Ðiều này cho phép người di dân ở một quốc gia duy trì mối quan hệ chặt chẽ với quốc gia của họ.

Ngoài ra còn có các thành phố, vùng lân cận và thị trấn của Hoa Kỳ, nơi mà cộng đồng người di dân chiếm đa số dân số, chẳng hạn như một số nơi ở California. Ðối với những người di dân sống ở những “đảo di dân” này, họ ít có nghĩa vụ phải trải qua quá trình hòa nhập văn hóa hơn. Họ có thể tồn tại khá tốt mà không cần sử dụng tên Mỹ và bằng cách cho con cái họ học được ngôn ngữ của đất nước họ.

Xem thêm:   Tồn đọng chiếu khán di dân giảm 4%

Tuy nhiên, nhiều người di dân cảm thấy áp lực phải đặt nền văn hóa của họ làm nền tảng. Họ không thoải mái khi thể hiện văn hóa gốc của mình.

Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng những người di dân cư xử theo cách có thể làm dịu nền tảng văn hóa và sắc tộc của họ thực sự gặp nhiều khó khăn nhất trong việc thích nghi với ngôi nhà mới của họ.

Vì những lý do này, điều quan trọng đối với các nhân viên làm công tác xã hội, nhà trị liệu, nhà giáo và các nhà hoạch định chính sách mà làm việc với các gia đình di dân, là phải nhận thức được tất cả các khía cạnh của quá trình hòa nhập và đồng hóa văn hóa.

LMH