1. Đơn vị nhỏ nhất còn sống của cơ thể là gì?

Mặc dù các phần tử hạ nguyên tử là các đơn vị nhỏ nhất của cơ thể, chúng thiếu bốn khả năng để phân biệt sự sống và sự chết.

Khoa học gia định nghĩa đơn vị sống khi chúng có khả năng thực hiện các việc như phản ứng với kích thích, đổi các chất dinh dưỡng ra năng lượng, lớn lên và sinh sản. Như vậy tế bào là đơn vị nhỏ nhất còn sống của cơ thể.

Ngoại trừ trứng của con người mà ta có thể nhìn thấy bằng mắt với độ lớn bằng một dấu chấm, các tế bào đều rất nhỏ mà phải nhìn bằng kính hiển vi. Ða số các tế bào được đo bằng phần triệu của một thước. Mặc dù một tế bào thần kinh có thể dài nhiều cm và tế bào cơ bắp có thể dài một tấc, một tế bào thường nhỏ đến nỗi không nhìn thấy.

Một số tế bào nom giống như cây cột, hình khối, hình cầu. Hồng huyết cầu giống như một chiếc đĩa sâu; tế bào thần kinh giống những sợi chỉ; tế bào của má như những miếng đá lát.

Mặc dù tế bào có khả năng sinh sản, dự trữ và dùng năng lượng, tế bào khác hoàn tất những công việc đặc biệt.Tế bào của trái tim tất nhiên có vai trò khác hơn là tế bào gan. Nói một cách khác, có một sự phân chia công việc trong cơ thể.

2. Các phần chính của tế bào là gì?

Dù nhiệm vụ đặc biệt là gì, đa số các tế bào có cùng cấu tạo. Mỗi tế bào có một màng bọc, một nhân được dùng như một trung tâm và một khối huyết tương trong đó đa số nhiệm vụ  được thực hiện.

Màng tế bào bán thẩm, giống như một bao thư. Nói một cách khác, màng giống như người bảo vệ đứng trước cổng một xí nghiệp. Màng có nhiệm vụ vật lý và hóa chất đặc biệt cho phép nhận diện và tác dụng qua lại với các tế bào khác và quyết định cái gì có thể vào và ra khỏi tế bào.

Bằng nhiều cách, màng tế bào ra dấu “ngưng lại” để không cho các chất không muốn vào.Các tế bào bình thường tuân theo hiệu lệnh; tế bào ung thư cũng tuân theo nhưng ít hơn và ít bị kiểm soát.

Có thể các khuyết điểm ở màng tế bào có điều gì liên can tới sự phân tán của ung thư mà các nhà nghiên cứu đang điều tra.

Ở giữa tế bào là nhân có vai trò điều khiển các phản ứng hóa học xảy ra ở tế bào và giống như vai trò của viên kỹ sư trưởng một cơ xưởng. Nhân  của mỗi tế bào chứa toàn bộ gen di truyền của cơ thể. Nếu nhân bị lấy đi trong phòng thí nghiệm, tế bào mất khả năng sinh sản hoặc hoạt động trong một thời gian rồi chết.

Chất ở xung quanh nhân là bào tương. Ðây là chất nước có rất nhiều cấu trúc đặc biệt giống như các bộ phận trong một xí nghiệp. Chúng chế tạo, thay đổi, chứa và chuyên chở  các chất đạm và cũng có nhiệm vụ phế bỏ các rác rưởi của tế bào.

3. Tế bào sống được bao lâu?

Nhiều tế bào, kể cả tế bào của da và máu có một thời gian sống ngắn hạn và tự phân chia mỗi 10 tới 30 giờ. Một số tế bào cơ bắp chỉ sinh sản mỗi lần trong mấy năm. Các tế bào khác chỉ sinh sản trong những hoàn cảnh đặc biệt. Thí dụ nếu bảy phần tám của gan được cắt bỏ, sự phân bào bắt đầu ở các tế bào còn lại và tiếp tục cho tới khi gan đã hoàn toàn bình thường.

Các tế bào đặc biệt nhất của cơ thể không có thể gián phân tức là một tế bào đơn độc sẽ sinh ra hai tế bào đồng nhất về di truyền.

Trong số này phải kể tới các tế bào của hệ thần kinh, kể cả não. Nếu sau một số tuổi nào đó, thương tích hoặc bệnh làm tổn thương tế bào thần kinh, chúng không tự sinh sản được nữa  và mất hẳn đi.

4. Tế bào lấy năng lượng ở đâu?

Như điện cung cấp cho một cơ sở, cho nên một hợp chất hóa học kêu là adenosine triphosphate điều khiển một phần lớn nhiệm vụ của cơ thể và của mỗi tế bào. Nếu không có ATP, quý vị không di chuyển và suy nghĩ được.

Mỗi tế bào sản xuất ra ATP từ thực phẩm mà ta ăn. Công việc thực ra do chất rất nhỏ của huyết tương gọi là ty lạp thể, một nhà máy điện của tế bào, thực hiện.

Các tế bào này chứa rất ít ATP. Bất cứ lúc nào cơ thể cũng chứa khoảng 88.7 ml chất nhiều năng lượng này.Tế bào tạo ra ATP khi cần. Nếu rất hoạt động, các tế bào có thể sản xuất mỗi ngày số  lượng ATP tương đương với sức nặng của cơ thể quývị. Giả thử ATP có thể lấy ra từ cơ thể quý vị và kết tinh: từ 3,500 ca lo thực phẩm, các tế bào có thể tạo ra một khối bột trắng đo được 0.8 mét khối.

5. Môi trường bên trong của cơ thể là gì?

Môi trường bên ngoài là một khái niệm thông thường. Nhưng từ thế kỷ thứ 19, các nhà sinh lý học đã nói về môi trường bên trong, một khái niệm ít được biết tới.

Cả ngàn sinh vật không có môi trường bên trong; đa số chúng sống ở biển. Các động vật ở trên đất liền và con người, ngược lại, đều có môi trường bên trong – và điều đáng biết là nó giống như nước biển.

Môi trường bên trong của quý vị là chất lỏng ngoài tế bào. Một phần ba chất lỏng trong cơ thể là chất lỏng ngoài tế bào. Số còn lại là chất lỏng trong tế bào. Có nhiều loại chất lỏng ngoài tế bào, kể cả huyết tương, nước mắt, nước tủy sống và dịch vị tiêu hóa.

Chất lỏng ngoài tế bào luôn luôn di chuyển trong cơ thể. Tất cả các tế bào của quý vị đều tắm trong đó, và các nhà sinh lý học thường nói là các tế bào sống ở trong đó, như các sinh vật của biển sống ở đại dương. Các tế bào của quý vị có thể sống và lớn lên ở môi trường bên trong đó, miễn là nó được cung cấp đầy đủ các amino acid, chất béo, glucose, các chất điện phân, muối  và dưỡng khí.

NYĐ

Arlington, TX.