“Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nhấc bổng trái đất lên” là câu nói nổi tiếng của Archimedes (287-212 trước Công Nguyên). Ổng là một nhà toán học, nhà vật lý, nhà phát minh huyền thoại người Hy Lạp. Hình của Archimedes được in ở mặt trước của Huy chương Fields, giải thưởng danh giá được coi là “Nobel Toán học (vì giải Nobel không bao gồm lĩnh vực toán học), được Hiệp hội Toán học quốc tế (IMU: International Mathematical Union) trao 4 năm một lần cho những nhà nghiên cứu nổi bật.

Ơ-rê-ca (Eureka, nghĩa tiếng Việt là “tìm ra rồi”) là một giai thoại nổi tiếng về cách ra đời của “lực đẩy Archimedes” và của mục.. này.

Âm thanh vốn vô hình, để “nhốt” được những giai điệu bay bổng ấy vào trang giấy là một hành trình tư duy hàng thiên niên kỷ…

Dấu vết sớm nhứt của việc ghi nhạc được tìm thấy tận thời Lưỡng Hà trên các bảng đất sét chữ hình nêm. Nổi tiếng hơn cả là bản “Hurrian hymn” (khoảng 1400 TCN). Tuy nhiên, việc giải mã những ký hiệu cổ xưa này vẫn chưa thể cho ra một giai điệu “chắc như đinh đóng cột”, phần lớn vẫn mang nặng tính diễn giải.

Thời Hy Lạp cổ đại, dù Pythagoras đã dùng toán học để chứng minh tỷ lệ vàng của quãng tám (2:1) hay quãng năm (3:2), âm nhạc vẫn là khái niệm trừu tượng. Suốt thời Trung Cổ, các ca đoàn nhà thờ phải vật lộn với hệ thống ký hiệu “neumes” – những nét mực uốn lượn như lăng quăng trên giấy da. Chúng chỉ gợi ý hướng đi lên xuống của giọng hát một cách mơ hồ, tựa như bản đồ chỉ có hướng mà không có tọa độ, khiến việc học nhạc phụ thuộc nặng vào truyền khẩu và trí nhớ tập thể.

Xem thêm:   Bức tượng Đức Mẹ thứ 3 của bà Ngô Đình Nhu

Bước ngoặt lớn đến quanh thế kỷ XI với Guido d’Arezzo (khoảng 991–1033), một tu sĩ Dòng Biển Đức có tư duy thực tế đến mức… bị ghét. Không chấp nhận lối học vẹt mòn mỏi, Guido đã tạo những dòng kẻ ngang để định vị cao độ chính xác. Ông dùng màu đỏ cho dòng nốt Fa và màu vàng cho dòng nốt Do (C) – tiền thân rực rỡ của khuông nhạc đen trắng ngày nay. Tài tình nhứt là tư duy sư phạm của ông. Để giúp học trò đọc nhạc vanh vách, Guido đã trích xuất các âm tiết đầu từ bài thánh ca Latin Ut queant laxis để đặt tên cho sáu nốt trong thang âm (hexachord): Ut – Re – Mi – Fa – Sol – La. Ông cũng cố định khoảng nửa cung giữa Mi và Fa làm “cột mốc”, giúp ca sĩ không còn lạc giọng giữa rừng âm thanh. Tuyên bố ngạo nghễ của Guido rằng phương pháp này giúp rút ngắn thời gian học nhạc từ mười năm xuống còn vài tháng đã chọc tức giới tu sĩ đương thời, nhưng Guido đúng.

Lịch sử luôn cần sự bồi đắp, đến thế kỷ XVII, khi nốt “Ut” với âm đóng nặng nề được thay thế bằng “Do” vang vọng (được cho là từ Dominus), và nốt “Si” (Sancte Iohannes) được chính thức bổ sung để phá vỡ giới hạn sáu nốt, nhân loại mới có được “bảng chữ cái âm nhạc” thất cung hoàn chỉnh.

Xem thêm:   Nam Trung Bộ và Tây Nguyên Việt Nam trong "đại hồng thủy"

Guido không tạo ra Mozart hay Beethoven, nhưng ông góp phần giúp âm nhạc thôi sống kiểu du mục trong trí nhớ, bắt đầu định cư trên trang giấy, có địa chỉ, có số nhà, có thể đi xa muôn hướng không sợ lạc đường, chỉ sợ mấy ông nhậu lạc giọng khoái hát lạc tông…