“…Chỉ là những câu chuyện vụn vặt được chắp nối qua những mảnh đời dân quê miệt kinh rạch hầu san sẻ cùng bạn trẻ, những người chưa hoặc không có dịp sống gần gũi với dân ruộng về các miền kinh rạch ấy như một nét đặc thù của văn minh Việt bên cạnh một nếp “văn minh miệt vườn” khá sung túc, trù phú…” (Hai Trầu Lương Thư Trung).

Luôn tự nhận mình là một “người nhà quê”, nhưng ai cũng hiểu là cách nói khiêm cung của một học giả, kiến thức quảng bác, như bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trìu mến nhận định “Nó là văn chương miệt vườn. Sau này muốn biết về miền Nam mưa nắng hai mùa ra sao thì phải đọc Sơn Nam và Hai Trầu thôi.”.

Mời bạn cùng chúng tôi dạo chơi cùng mưa nắng miền Nam…

(tiếp theo)

Lập vườn bắt kiến vàng

Kinh xáng Bốn Tổng ngày… tháng Giêng, năm 2000.

 

Cháu Tư,

Hôm rồi, chú có ra Long Xuyên ghé lại nhà số 99, đường Liêu Tường Thái, gần chùa Phật, đối diện nhà thương Long Xuyên, để thăm anh Ba Danh, là chú ruột của cháu, rồi tiện thể mới biết tin tức mấy đứa bây học hành tấn tới thành tài. Anh Ba Danh độ này coi bộ cũng còn khoẻ khoắn như hồi năm nẳm lúc tao xuống Phong Điền thăm “ông Tư vườn cam sành” để mua nhánh cam giống dìa đặng lập vườn rồi gặp ảnh.

Mèn ơi, cái xứ Phong Điền, Cầu Nhím, Ba Xe bên này đổ qua; Ô Môn, Bình Thủy miệt trên đổ vô, vườn tược, ôi thôi, lưỡng biên hai bên bờ kinh rạch. Cam quýt, mận xoài, đủ loại không thiếu món nào. Từ quýt đường vỏ mỏng ngọt lịm cho tới quýt ta vàng lườm mà khi chấm muối ớt ăn vừa khỏi cổ là có hậu chua chua, mặn mặn bắt thèm hoài. Rồi nào là quýt hồng đỏ au, bóng lưỡng, tới cam sành, cam tàu, bưởi xanh, bưởi thanh trà trái bằng trái dừa lột vỏ treo đầy nhánh sai oằn. Còn thêm  mận trắng, mận xanh, mận da người, mận hồng đào, cóc, ổi đủ loại, mà loại nào loại nấy cũng bắt phát thèm chấm muối ớt lai rai vài xị đế cho ấm lòng.

Lần đó, cũng khá lâu, chú Hai Trầu xuống dưới đó rồi mê ba cái vườn quá mạng, nên khi trở dìa trên kinh xáng Bốn Tổng mới bán hai công đất ruộng lấy tiền, mướn sắp nhỏ bỏ ra một mùa nước chở đất ngoài đồng bồi bổ thêm cho nền vườn cũ đừng ngập để trồng cam quýt cho chắc ăn.

Một công vườn bằng mười công ruộng mà chứ ít ỏi gì! Lập vườn mà trồng cam với quýt chẳng khác nào nuôi con gái nhà giàu cháu Tư à! Giống tốt mà đất cằn cỗi cũng không được. Loại vườn cam quýt này dù cho trái nhiều, trái lớn mà không có kiến vàng cũng không được, vì cây thiếu kiến như lúa thiếu nước, trái chai cứng có nước bẻ cho con nít ăn mấy đứa nhỏ còn chê. Cho nên cái việc đi bắt kiến vàng về nuôi trong vườn là chuyện hàng đầu.

Loài vật nào hễ nói tới nuôi là phải cho nó ăn nghe cháu Tư. Không có mồi đủ ăn là nó đi tuốt luốt. Nhưng không phải mồi nào kiến vàng ăn cũng được nhe. Có loại mồi như ruột gà, ruột vịt, ruột lươn, ruột rắn, kiến vàng ăn rồi còn rủ rê bạn bè dìa làm ổ thêm. Có loại mồi như cua đinh, càng đước, thịt trích rừng cho kiến vàng ăn rồi nó rủ nhau đi ráo trọi không còn một con làm thuốc.

Xem thêm:   Những đống lửa Bonfires

Cháu có biết loài chim trích rừng này hông? Loại chim này có hai cái giò cao lêu nghêu, có bộ lông màu xanh dương, cái mỏ màu vàng với bộ lông trên đầu lúc nào cũng dựng đứng như cái mão đội ngược. Cứ mỗi lần gặp người lớn trẻ nhỏ gì đi ngang qua gần chỗ nó đang đứng là loài trích rừng này phùng mang xòe cánh và đâm đầu rượt người ta thục mạng…

Có kiến vàng mà thêm kiến hôi dợm  mé bờ mương là sắp có giặc. Trận giặc kiến vàng với kiến hôi cũng ghê hồn lắm. Đó là trận giặc quyết tử, mà thông thường, nếu mình không tiếp ứng bằng đuốc lá dừa, bằng dầu nhớt thấm vô giẻ rách buộc theo mấy nhánh cây có kiến hôi muốn tràn qua ranh giới, thì kiến vàng coi mòi cầm chắc phần thua dù bự con cao cẳng dữ tợn… Đó, đại khái chú nhắc với mấy cháu một chút về vườn tược như vậy, để chú còn trở lại cái thư này mà chú muốn viết chứ không thôi mê mẩn vườn cây trái ngọt hoài đâm ra lạc đề biệt mù san dã…

Cây nào có kiến vàng ở đó sẽ không có côn trùng. Ảnh: Lê Dương 

Vợ chồng cháu Tư,

Chú muốn nhắc cái học và cái hành đời nào cũng cần lấy cái căn bổn làm trọng. Học giỏi mà hành không thông thì coi như cái học chưa tinh tường và chưa học đã hành thì thường là làm dễ trật. Hồi đời trước, ở cái xứ Long Xuyên này có mấy ông luật sư nổi tiếng như cồn một thời như luật sư Bảo, luật sư Tồn là nhờ cái tài hùng biện nhưng so bề đạo hạnh không gần dân tình cho lắm vì họ học với Tây mà. Nghề gì cũng vậy cháu Tư ơi, lương tâm là cái thước vô hình nhưng đo được đức hạnh của con người ta mà!

Thiệt tình ra, con nhà gia thế, có học có hành, thì con cái học hành đỗ đạt là chuyện tự nhiên. Lại nữa, chú nghe mấy người quen kể lại, là con trẻ đời bây giờ đứa nào đi ra ngoại quốc mà chịu học đều thành tài ráo trọi dù học tiếng Mỹ, tiếng Đức, tiếng Tây, tiếng Nhựt. Cho nên việc vợ chồng cháu học hành thành tài đều là cái lẽ tự nhiên của những người chịu cực khổ học hành, có chí thì nên, có công mài sắt có ngày nên kim như ông bà xưa dạy răn con cháu. Nhưng có điều này mới là đáng quý, là theo lời anh Ba Danh kể lại, vợ chồng cháu lúc nào cũng nói tiếng Việt theo giọng nói hiền lành, mộc mạc rặt miền quê Phong Điền, Cái Răng; lúc nào cũng bình dân thương yêu cô bác lớn tuổi già nua, nhất là mấy chú mấy bác lính già đi qua Mỹ theo diện “HO”, vợ chồng cháu quý mến kính trọng các chú ấy lắm.

Chẳng hạn như bác Năm Định, người quê quán ở Chương Thiện, thuở nhỏ lúc ở miệt vườn thích môn chất chà rơm bắt chuột cơm cái bụng trắng phau. Lớn lên đi học trường làng, trường tỉnh rồi đi lính trừ bị làm quan gì chú cũng hổng có rành cho lắm. Đời trước làm việc ở đất Vĩnh Long, qua Mỹ có một mình, năm nay cũng lụm cụm bảy chục có hơn, rồi qua đó gặp lại ba cháu cùng gia đình, vậy mà rồi vợ chồng cháu thương yêu bác Năm như bác ruột của mình.

Xem thêm:   Khi phái đẹp... nhậu!

Chú nghe nói, nên quý là quý cái tấm chân tình của vợ chồng cháu như vậy; quý là quý cái tình đồng bào ruột thịt mà giúp đỡ, binh vực khi cần như vậy. Cái lòng nhân không phải người giàu nào cũng có giống nhau. Người ít kẻ nhiều nên mới có người hơn kẻ thua là vậy. Hơn thua là hơn thua cái lòng nhân đức chứ hơn thua gì cái giàu cái nghèo, cái cao cái thấp, phải vậy hông hai cháu? Con cháu còn nhỏ mà biết cái công lao của những người lính vô danh một thời lăn xả vào lửa đạn rồi âm thầm giúp đỡ thương yêu khi có cơ hội cũng là cách đền ơn đáp nghĩa của đời sau đối với đời trước vậy.

Chú còn nghe kể thêm, năm ngoái bão Linh Đa ở Năm Căn, Cà Mau, Rạch Giá cũng như năm nay bão lụt ngoài Huế, ngoài miền Trung hồi tháng 11 tây với hằng trăm, hằng ngàn người chết trôi chết nổi thật vô cùng thảm thương, cùng hằng trăm ngàn người sống chịu cảnh màn trời chiếu đất tơi bời, vợ chồng cháu cùng bà con năm châu bốn bể lẹ lẹ quyên góp bạc tiền gởi dìa cứu giúp, cũng là một chút tình mà chú Hai nghe nói là cảm động lắm.

Ở đời mà, ông già bà cả có khuyên “có đức mặc sức mà ăn”, phải vậy hông hai cháu? Chú Hai nhiều đêm ngồi một mình nghe chim kêu rồi ngẫm nghĩ lại chuyện nhân từ từ cổ chí kim mà hồi nhỏ đã học trong sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư, nó đúng quá là đúng, không sai chạy. Tiền bạc thì khi còn khi hết như nước lớn nước ròng nhưng người nhân đức thời nào cũng được quý trọng hoài hà cháu ơi!

Ngoài ra, chú còn nghe anh Ba Danh kể lại là lúc ba cháu không còn làm việc nữa mà lại vô trại cải tạo, cháu đã theo má cháu dìa quê ở Phong Điền sống đời lam lũ quê mùa khi mới mười bốn tuổi. Vậy mà cảnh vườn tược ruộng nương đã un đúc cho cháu có đức tính thương người nhà quê nghèo khó, ấp ủ nơi cháu cái tình cảm chòm xóm láng giềng thân thiết như ruột thịt, rồi cháu cứ theo cái nếp đạo hạnh đó mà ở đời. Chú nghe vậy mà nghĩ thật là quý báu thay cho một người tuổi trẻ học cao hiểu rộng mà vẫn giữ được cái hạnh bình dân, cái nền chơn chất, cái tình làng xóm quê mùa nên mới mừng thầm cho những người trẻ tuổi Việt Nam mình còn giữ lấy lề dù sống xa quê hương đến ngàn trùng…

Bữa đó ghé ngoài anh Ba Danh như vậy cũng hết một ngày. Ảnh sai mấy đứa nhỏ ra nhà lồng chợ Long Xuyên mua một mớ vụn heo khìa nước dừa, một mớ mắm cá lóc thái trộn đu đủ mỏ vịt dìa hai anh em lai rai tới chạng vạng chú mới xuống xuồng mò dìa kinh xáng, tới bữa nay mới ngồi viết quọt quẹt cái thơ này cho cháu đây. Thôi cho chú gởi lời thăm vợ chồng cháu mạnh giỏi, bền duyên giai ngẫu trăm năm. Nói với bác Ba chú Hai gởi lời thăm và hẹn ngày gặp lại ông bạn già miệt vườn miệt ruộng. Sau cùng chú nhờ vợ chồng cháu cho chú gởi lời thăm gia đình hai bên của cháu cũng như của vợ cháu bình an vô sự…

Xem thêm:   Suy Đi Ngẫm Lại (12/25/2025)

Bây giờ là ngày hai mươi ba tháng Chạp rồi, ngày đưa ông Táo dìa Trời đó mà!  Thím Hai bây có nấu nồi chè đậu cùng xôi nếp, hoa quả bày biện cúng đưa ông Táo hồi sáng này, chú mới sực nhớ vài ngày nữa lại thêm một tuổi nữa trên đầu. Năm hết Tết đến là lẽ trời sắp đặt rồi, ai ai cũng đồng đều nhận thêm một tuổi giống nhau nhưng kẻ trước già trước, người sau già theo sau nhưng khác nhau là thêm một tuổi nữa người này làm được điều này ích lợi, còn người kia có làm được điều gì lợi ích hay không? Chú Hai cứ tư lự hoài về đời chú mấy chục năm nay làm được gì chưa hay chỉ là một gánh nặng cho cháu con, cho xóm giềng, cho đời…

Ở đây Tết nhứt tới bên lưng rồi nhưng lúa thóc ngoài đồng loanh quanh lẩn quẩn với bịnh, với sâu làm cho bà con cô bác ở đây cũng hết hăng ăn Tết. Luôn tiện chú Hai cũng chúc hai vợ chồng cháu ăn Tết  vui vẻ.  Thôi, để rảnh rang, chú Hai viết cho hai đứa bây cái thơ khác đọc chơi, lại nữa, lúc này con mắt con mũi của chú sao nó lờ mờ như sương mù buổi sáng tháng Hai, tháng Ba, chừng như chú cũng già quá mạng rồi mấy cháu ơi!!!

Nhắc đến lúc “rảnh rang”, chú mới sực nhớ câu ca dao truyền miệng từ hồi đời xưa, ghi ra đây để hai cháu coi thử: “Tháng ba, ngày tám rỗi ràng,  Làm sao đủ gạo mùa màng khỏi lo…” Thăm hai cháu mạnh khoẻ…

 

Cuối thơ,

Hai Trầu

Nhớ Chủng Viện Cái Răng

Kinh xáng Bốn Tổng ngày… tháng Giêng năm 2000

 

Mấy lời thăm chú Ba Minh,

Tết vừa rồi nghe nói bên chỗ chú ở bà con mình ăn Tết lớn lắm phải hông chú Ba? Tôi nghe đài BBC trên cái ra dô hiệu Phillip ba băng, phải xài tới sáu cục “pin” con ó, mà má tôi mua hồi thời giá lúa có sáu ngàn đồng một giạ, nên phải bán gần một trăm giạ lúa mới mua được và biết tình hình Tết nhứt như vậy, mà mừng. Hồi đó, thời này ra dô phải đóng thuế hằng năm. Giá thuế ra dô như vậy mỗi năm là bốn trăm đồng bạc do Ngân hàng Quốc gia Việt Nam phát hành.

Còn bên nhà, Tết năm nay trời mưa tầm tã luôn ba ngày mùng một, mùng hai, mùng ba Tết, nên cảnh buồn quá xá là buồn Chú Ba à! Mấy đứa cháu cho hay trên Sài Gòn trời cũng mưa vào ba ngày đầu năm như vậy. Thiệt tình, trời đất bây giờ cũng biến đổi bất thường quá mạng chứ chẳng chơi! Rồi tôi ngồi một mình nhìn ra ngoài vườn cây cối ướt mem nên đâm ra nhớ anh, nhớ em mà viết cho chú cái thơ này.

Tiểu Chủng Viện Cái Răng, Cần Thơ – nguồn facebook

(còn tiếp)