“…Chỉ là những câu chuyện vụn vặt được chắp nối qua những mảnh đời dân quê miệt kinh rạch hầu san sẻ cùng bạn trẻ, những người chưa hoặc không có dịp sống gần gũi với dân ruộng về các miền kinh rạch ấy như một nét đặc thù của văn minh Việt bên cạnh một nếp “văn minh miệt vườn” khá sung túc, trù phú…” (Hai Trầu Lương Thư Trung).
Luôn tự nhận mình là một “người nhà quê”, nhưng ai cũng hiểu là cách nói khiêm cung của một học giả, kiến thức quảng bác, như bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trìu mến nhận định “Nó là văn chương miệt vườn. Sau này muốn biết về miền Nam mưa nắng hai mùa ra sao thì phải đọc Sơn Nam và Hai Trầu thôi.”.
Mời bạn cùng chúng tôi dạo chơi cùng mưa nắng miền Nam…

(tiếp theo)
Miếng khi đói
Kinh xáng Bốn Tổng ngày… tháng Giêng, năm 2000.
Mến gởi chú Tư Thiện, ở bên Gia- Nã- Đại,
Chú Tư Thiện ơi,
Từ hồi chú đi qua bên bển tới bây giờ tui mới lần mò kiếm ra được cái số nhà của chú ở cái tỉnh bang Tô-Rong-Tô, nên mới rị mọ viết lá thơ này gởi qua cho chú nhân dịp năm tận tháng cùng để thăm nom vợ chồng chú cùng sắp nhỏ mạnh giỏi.
À mà này, sao người mình lại gọi cái tỉnh Tô- Rong- Tô là “tỉnh bang” vậy chú Tư? Ở ngoài vàm kinh có con ông Ba Biểu mới ở bên bển dìa ăn Tết, tui hỏi thăm nó tại sao người ta gọi như vậy? Nhưng nó trả lời lung tung quá, thành ra tui không mường tượng ra được cái chỗ chú ở có giống Cần Thơ, Long Xuyên, Sài Gòn của mình hay không?
Còn bên Mỹ, thằng Út em tui, nó nói nó ở “tiểu bang” Rốt- Ai- Len. Nghe đâu tiểu bang này nhỏ nhất nước Mỹ, lớn bằng ngón tay cái trên bản đồ. Một đằng thì gọi “tỉnh bang”, một đằng thì gọi “tiểu bang”, cho nên tui cứ còn thắc mắc hoài vậy đó chú. Nhưng thôi chú Tư à, ở trên đời này mình có sá gì cái tên gọi, mà nhất là tên gọi của xứ sở người ta. Ngay ở chỗ của mình đây, tên các tỉnh, các chợ, các làng, các quận đổi tên như chong chóng.
Chú còn nhớ hông, nội cái tỉnh Đà Lạt của chú hồi năm nẳm tới giờ mà lúc thì Đà Lạt, lúc thì Tuyên Đức, lúc thì Lâm Đồng làm cho cây cối ở đó còn muốn điên cái đầu, nói gì đến con người như mình, làm sao mà khỏi chóng mặt chóng mày. Chỉ có ngọn núi Lâm Viên cao vòi vọi bị mây mù bao phủ quanh năm là không ai bò lên đó gắn cho nó một cái tên gì cho mới mẻ để hợp thời, hợp cảnh…
Tui cũng có đọc nhật trình, nghe nói bên các xứ văn minh như chỗ chú đang ở, người ta cũng đang rầu rĩ vì mình quá văn minh khi năm 2000 tới gần bên đít. Sao vậy chú? Ở đây bà con chòm xóm cũng bàn tán xôn xao về tận thế, sập trời.
Tui mới lấy cái ngu mà giải thích cho sắp nhỏ trong nhà để mấy đứa nhỏ đừng hoang mang rồi buông xụi, bỏ bê việc săn sóc, rải phân, xịt thuốc lúa thóc rẫy bái mùa Đông Xuân. Vì lúa thần nông này mà bỏ bê là sanh ra bệnh đạo ôn, bệnh đốm vằn, trăm thứ bệnh tật khác nữa kéo tới ào ào không kịp trở tay. Chừng đó mùa màng thất bát đưa đến chỗ không gạo không tiền mới là chết thiệt. Lúc bấy giờ trời đất chưa tận thế thì mình cũng tận mạng rồi.
Tui giải nghĩa cho gia đình tui như vầy: “Ngày nào cũng là ngày trời ráo trọi. Sáng mặt trời mọc, chiều mặt trời lặn. Có ngày để làm lụng đặng có lúa gạo ăn. Có đêm để mình ngủ nghê cho khoẻ khoắn. Cho nên năm 2000 hay năm gì gì đi nữa cũng là năm của trời, của đất chuyển vần. Tại mình đặt ra con số vậy thôi chứ trời đất đâu có biết và cũng đâu có định ngày nào mặt trời hết mọc, ngày nào mặt trời hết lặn đâu mà tận thế hay không tận thế.”
Nhắc đến đây, tui mới bật nhớ hồi ông nội tui còn sống có nhắc lời của đức Khổng Phu Tử trong cuốn Minh Tâm Bửu Giám, đại ý: “Việc sống còn chưa biết được, làm sao biết được việc chết.” Và Ngài còn nói: “Thiên hạ hà tư hà lự?” Ông nội tui giải nghĩa câu chữ Nho này: “Thiên hạ có lo gì nghĩ gì?” và diễn tả thêm rằng không phải Đức Khổng Tử nói người ta không nên lo nghĩ mà ngài chỉ khuyên người ta đừng lo nghĩ những chuyện vẩn vơ.
Hồi xưa ông của tôi dạy học trò nhiều lắm nghe chú Tư Thiện. Lúc ấy tui còn nhỏ mà cũng len lén lại gần ngồi nghe học trò của ông nội tui để nghe sách. Sau này, tui lớn lên, sách vở chữ Nho của ông nội tui không còn vì bị giặc giã đốt nhà nên cháy rụi hết trơn. Gạch ngói mà không còn, bị lửa thiêu rụi, nói gì đến giấy mực! Nói vậy để không thôi chú lại tưởng lầm “ông làm thầy, cháu nội đốt sách” thì hoá ra tui lại tệ quá mạng.
Nói giỡn chơi cho vui, chứ thật tình sách xưa rồi cũng theo ông theo bà ráo trọi còn đâu tới đời con cháu mình để buồn buồn đem xé vài tờ vấn thuốc hút cho đỡ ghiền. Tui ngồi ngẫm nghĩ đời bây giờ còn lâu lắm mình mới bằng ông già bà cả đời xưa về cái đức cái nhân trong cách xử thế ở đời, nên hồi xửa hồi xưa đâu có ai lo tới ngày tận thế, tận thiết gì. Phải vậy hông chú Tư?
Chú Tư Thiện ơi,
Bây giờ là mùa nước lụt ở kinh xáng Bốn Tổng này đã giựt rồi. Gió bấc riu riu ngọn. Cây trong vườn cũng xào xạc tiếng tu hú gọi đàn. Lúa ngoài đồng bắt đầu lượt ngọn xanh dờn. Tui cũng bớt lo nạn lúa hao lúa dặm vì cũng đã qua rồi thời kỳ lúa “hai lá một đọt” dù từ đây cho tới ngày cắt gặt cũng còn tới vài tháng nữa. Tui tưởng vậy là mừng nhưng mà ở đây bà con ngồi đứng bồn chồn khi nghe tin ngoài miền Trung mới chịu thêm một cơn mưa lụt nữa sau trận lụt trước vừa đúng một tháng trời. Tui ngủ không được nghe chú. Nhà tan cửa nát, kẻ chết người trôi tang thương quá mạng mà. Lòng nào mà chẳng não lòng khi người cùng một bọc mà khổ sầu như vậy!!!. Biết bao người chết không nơi chôn cất!!! Biết bao người chiếu đất màn trời!!! Biết bao người dật dờ trong cơn nước đục bất nhơn!!! Rồi tui mới nhớ trong dân gian than trách ông Trời qua câu ca dao: “Trách Trời sao ở không công? Làm chi ngập lụt cho dân cơ hàn!”
Tui nhớ lại hồi xưa lúc tui còn nhỏ nghe người lớn nhắc đi nhắc lại “năm Thìn bão lụt” mà còn tản thần hồn, đến nay còn truyền miệng: “Năm Thìn trời bão thình lình, Kẻ trôi người nổi, hai đứa mình còn đây.” Trận lụt nào mà không là tai ương, không tàn phá dù năm Thìn hay mới vừa đây ngoài Huế, ngoài Trung. Tui lâm râm cầu khẩn cho bà con bớt khổ, bớt nạn để thấy năm 2000 lần lần bò tới mà còn hy vọng một đời ấm no trên mặt đất chữ S lắm oan khiên, loạn lạc…
Thôi nghe chú Tư, viết thơ cho chú vậy mà cũng đã dài lượt bượt. Trước ngày bắt đầu một năm mới làm xôn xao cả vũ trụ, tức là năm 2000 đó mà, tui cầu chúc cho chú cùng anh em bà con ở xứ xa nhà nhà bình yên, người người hưởng nhiều phước lộc để sống tới đầu bạc hầu thấy tận mắt những biến đổi, tiến bộ của loài người trong một ngàn năm tới… Còn gì vui bằng được dịp mời chú ghé qua nhà tui nhậu một chầu chuột đồng xào lá cách tháng Ba!
Thân ái,
Hai Trầu
Đất phèn trồng khóm
Kinh xáng Bốn Tổng ngày 24 tháng Chạp năm 1999.
Đôi lời thăm anh Chị Hai Tân An,
Hôm rồi tui có nhận được tuồng hát bội Nhạc Hoa Linh do anh Hai gởi dìa dưới này, tui đọc mê mẩn gần cả tháng trời anh chị Hai à!
Tuồng hát bội này xưa lắm rồi; nó gồm có 5 hồi và nhiều màn, nhiều cảnh. Tác giả không biết là ai vì đời xưa, người ta hay để khuyết danh, hay vô danh lắm anh Hai à! Người đời xưa làm ra thơ văn tuồng tích nhiều bài bản hay quá là hay nhưng không cần lưu lại tên họ, tuổi tác gì ráo trọi mà hay vẫn cứ hay và rồi sách vở cứ lưu truyền đời đời kiếp kiếp hoài.
Theo người phiên âm lại là nhà văn Nguyễn Văn Sâm, nghe đâu ở tuốt bên Mỹ, ngay cái chỗ hồi xưa hay đóng phim cao bồi, chịu khó ra công ghi chép, phiên âm, chú giải lại nên anh Hai mới có mà gởi dìa cho em út dưới này ham mê hát bội có mà đọc.
Trời thần ơi, tui giả bộ đọc có giọng có bộ ê a như gánh hát bội cúng đình, bà con chòm xóm túa lại xem tôi diễn thử mà cười gần bể cái bụng. Vậy mà tui cũng vui nữa anh Hai. Già rồi bịnh hoạn hoài nên vui được lúc nào là mình cứ vui, mà vui với chuyện hát bội như tuồng Nhạc Hoa Linh này của anh gởi dìa thiệt là quá ý nghĩa.
Mèn ơi, theo ông Nguyễn Văn Sâm, người phiên âm bản này ra chữ quốc ngữ, có ghi ở đầu tuồng là tuồng này xưa quá là xưa, nghe đâu hồi cuối thế kỷ thứ mười chín lận. Mà cơ khổ, tuồng hát bội của mình, ở xứ mình lại không có lưu giữ mà nó nằm chình ình bên thư viện của Ăng Lê với bản tiếng Nôm. Thiệt là quý phải không anh Hai. Quý là quý cái tuồng cổ đã đành, nó còn quý ở cái xứ văn minh như Ăng Lê mà còn biết gìn giữ tài sản của ông cha mình; thêm nữa, quý là quý ở cái người có lòng như ông Nguyễn Văn Sâm chịu khó tìm tòi lục lọi cái xưa, cái hiếm để phiên âm lại cho con cháu đời nay cũng như đời sau có mà học hỏi.

Phiên giả Nguyễn Văn Sâm
Tuồng Nhạc Hoa Linh vào đầu tuồng khi mở màn có mấy câu nói rao này do phiên giả Nguyễn Văn Sâm phiên âm ra như sau: “Rồng chầu sân Thuấn, phụng múa đền Nghiêu. Mừng Nam triều nối nghiệp quốc vương, lòa đất Việt thần truyền thánh kế. Giới Bài quan trọng trấn, lão tánh Nhạc Hoa Linh. Trọn năm đời phò tá đế đình, luyện một tiết rạng lòa nghĩa khí. Văn Gia Cát tinh thông lược trí, võ Tôn Quyền lòa thuộc gương binh. Sanh một trai nối nghiệp trâm anh, hỡi ngàn dặm theo thầy học đạo a!!!”
Ngoài ra, phiên giả Nguyễn Văn Sâm còn tóm lược mỗi cảnh bằng hai câu thơ nghe nó mới đã. Chẳng hạn trong hồi một, phân hồi một hay còn gọi màn một, hay cảnh một cũng được, có hai câu này: “Chú Hoa Linh trấn ải Bài quan, Cháu Thiền Ngọc trau văn luyện võ.” Rồi tiếp theo màn hai lại có hai câu khác: “Diệm Phi Ma tấn kích Bài quan, Nhạc Hoa Linh sẵn sàng cự chiến.” Rồi tới màn ba: “Chốn thâm cốc Hoa Linh bị hãm, Nơi trận tiền Thiền Ngọc giải nguy.”
Cha, càng đọc càng mê nghe anh Hai. Hai chú cháu Hoa Linh và Thiền Ngọc này cũng tài giỏi dữ lắm. Nhưng tui mê nhất ở Hồi 3, màn 2, cái cảnh sao mà giống mình hồi năm nẳm quá là giống: “Thời vận hạn, Hoa Linh bị bắt, Cảm nghĩa ân dân chúng khóc đưa.” Thiệt là ý nghĩa nghe anh.
Ôi thôi, còn nhiều lắm anh Hai à. Tuồng này dài tới 5 hồi, nhiều cảnh, nhiều màn lắm, tui mê quá trời là mê. Để hôm nào anh có rảnh xuống dưới kinh xáng Bốn Tổng này chơi, tui biểu sắp nhỏ kiếm mồi hai anh em mình nhậu lai rai rồi tui hát thử cho anh nghe chơi, chắc là cười bể bụng.
Ở Tân An, anh có lên Sài Gòn mua sắm đồ đạc ngày lễ mừng Đức Chúa ra đời không anh? Từ Tân An lên Sài Gòn gần xịt chứ có xa lơ xa lắc gì. Dưới này, hôm kia tui đi ra Long Xuyên rồi đi lòng vòng lên làng Bình Thủy, Năng Gù coi thử cái cảnh đón mừng ngày Đức Chúa ra đời xem có bằng hồi trước hông. Nhưng sao tui thấy cũng không vui gì mấy. Nhớ hồi trước, bên Cù Lao Giêng, thuộc quận Chợ Mới, là xóm đạo đầu tiên và lớn nhứt vùng này cứ mỗi lần tới ngày lễ Giáng Sinh này là vui lắm anh Hai à!
Lâu quá rồi, lại nữa cách giang cách đò, mình lại trọng tuổi nữa nên tui cũng ít đi qua bên Cù Lao Giêng, thành ra không biết đời này có giống đời trước hay không? Còn anh ở Tân An, có khi nào anh nghe nói hay tìm hiểu về cái mả chôn đứng khỏi trường Sư phạm Cộng đồng hồi trước một đỗi về hướng Mỹ Tho hông anh? Chứ hồi tui còn nhỏ, nghe đồn người chết được chôn đứng là vì bị trời trồng, thành ra tui cứ bán tín bán nghi hoài hà, không biết hỏi ai cho rõ ngọn ngành.
Cha, nhắc đến Tân An là tui nhớ tới món khóm. Trời ơi, khóm gì mà ngọt chí mạng, ăn rát lưỡi cũng còn muốn ăn hoài vì nó ngọt. Hồi xưa, lúc hai cây cầu sắt đời Tây bắc qua sông Vàm Cỏ ở Tân An một cây, ở Bến Lức một cây, còn cái cảnh xe qua lại phải chờ bảng đỏ bảng xanh có người lính gác trên cầu ngồi trong cái lồng cu lật qua lật lại, mỗi lần tui theo Tía tui đi Sài Gòn, xe ngừng lại ở gần đầu cầu là ăn khóm mệt nghỉ nhe anh Hai. Miếng khóm thì vàng hực ghim vô cây ghim tre, tươm mật tươm đường; còn chén muối ớt đỏ au thấy mà phát thèm đến chảy nước miếng. Anh Hai thử coi, bụng đang đói, móc túi lấy vài ba đồng bạc cắc là có khóm ghim ăn cho tới no bụng.
Đi qua thì đã ăn rồi, tới phiên trở dìa dưới kinh xáng lại thèm ăn nữa, khóm này hấp dẫn không thua gì khóm Tắc Cậu miệt Rạch Giá, khóm Cầu Đúc Cái Sình miệt Hỏa Lựu, Vị Thanh.
Sau này khi tui xuống rừng U Minh đốn cây đốt than làm củi, lập rẫy trồng khóm, trồng dừa, tui mới ngẫm nghĩ ra cái điều này nghe anh Hai: “Đất phèn thì trồng khóm ngọt, vùng nước ngọt trồng khóm lại chua.” Cho nên, tui mới rút ra được bài học là đất nào cây nấy anh Hai à. Khóm chỗ anh mà có ngọt cách mấy nếu đem dìa miệt vườn mà trồng là chịu trận, ăn chắc chua té ngửa chứ chẳng chơi.
(còn tiếp)








