“…Chỉ là những câu chuyện vụn vặt được chắp nối qua những mảnh đời dân quê miệt kinh rạch hầu san sẻ cùng bạn trẻ, những người chưa hoặc không có dịp sống gần gũi với dân ruộng về các miền kinh rạch ấy như một nét đặc thù của văn minh Việt bên cạnh một nếp “văn minh miệt vườn” khá sung túc, trù phú…” (Hai Trầu Lương Thư Trung).

Luôn tự nhận mình là một “người nhà quê”, nhưng ai cũng hiểu là cách nói khiêm cung của một học giả, kiến thức quảng bác, như bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trìu mến nhận định “Nó là văn chương miệt vườn. Sau này muốn biết về miền Nam mưa nắng hai mùa ra sao thì phải đọc Sơn Nam và Hai Trầu thôi.”.

Mời bạn cùng chúng tôi dạo chơi cùng mưa nắng miền Nam…

(tiếp theo)

Chung Kết

Kinh Xáng Bốn Tổng ngày 13 tây, tháng 7, năm 1998.

Chú Ba bầy trẻ,

Tui và mấy bà con ở kinh xáng Bốn Tổng mình đã trải qua những giờ phút hồi hộp vì những trận banh cuối cùng của kỳ tranh cúp vàng thế giới kỳ này. Dường như mọi điều dự đoán của bà con ở đây đều không trúng chú Ba. Trật ráo trọi. Nước Hòa-Lan đá khá vậy mà rồi thua nước Cờ-roát-tia 2-1. Còn nước Ba-Tây bị khớp trước hội banh Tây gà trống, thua nặng nề với 3 bàn không gỡ được, để nước chủ nhà ôm cái cúp vàng.

Thật khó tin, nhưng đây là sự thật. Thôi chuyện coi như xong xuôi đâu đó hết rồi phải không chú. Thế cũng làm cho nước Tây hãnh diện vì đá tại nước của Tây, mà cũng thêm cho nước Ba-Tây một điều nên suy nghĩ, phải không chú? Chuyện tranh tài có thắng, có thua, khi hên, khi xui, khi mạnh, khi yếu mà. Vả lại, ông bà mình có nói: “Có ai giàu ba họ, có ai khó ba đời”. Kẻ thắng nào cũng cười, người thua nào cũng khóc, như một định luật bất di bất dịch!

Vì là trận banh cuối cùng nên ai cũng ráng thức mà coi cho tường tận để mai kia, lâu lắm mới có một lần chú à. Mấy đứa nhỏ chạy đầy sân. Người lớn đứng ngồi chật ních. Ông Tám hôm nay làm gà nữa nghe chú. Gà nấu cháo đậu xanh. Ông Tám nói: “Bà con đừng lo, anh em con cháu lâu lâu mới đến nhà tui chơi, tui mừng lắm”. Thằng út Tân, cháu của chú, có nuôi bầy vịt Tàu, sắp tuyển cồ vào mùa cắt lúa hè thu cuối tháng này, nên nó có trói giò vài con đem góp vô nồi cháo cho xôm tụ.

Chú còn nhớ mùa vịt tuyển cồ tháng Bảy không? Hồi mình hốt vịt con tại lò đâu khoảng tháng Ba âm lịch. Chuồng trại “tăng hu” cũng cực gần 4 tháng, vịt nay đã đủ lông cánh rồi đó chú Ba. Nên vào mùa cắt lúa là có lúa đổ, có cua ốc, vịt đủ mồi lớn như thổi. Con nào con nấy ú ì. Bầy trẻ mới bắt đầu lựa vịt trống đem ra chợ bán, hoặc ai mua mình bán cho lối xóm cũng được, miễn sao mình chừa lại vịt mái, rồi tiếp tục nuôi cho tới khi nó đẻ trứng.

Vịt tuyển cồ là vậy đó chú. Để hôm nào rảnh tôi kể chú nghe cái nỗi vui buồn của nghề nuôi vịt đẻ này. Nó giàu mau mà cũng mạt sớm lắm chú! Bà con đặt thành câu truyền miệng: “Muốn giàu nuôi cá, muốn khá nuôi heo, muốn nghèo nuôi vịt ” là đủ biết kinh nghiệm về mấy cái nghề chăn nuôi ở kinh xáng, ở ruộng nó thấm thía dữ lắm!

Ba-Tây bị khớp trước hội banh Tây gà trống, thua nặng nề với ba bàn không gỡ được, để nước chủ nhà ôm cái cúp vàng.- nguồn youtube

Ở vàm Ba Bần, ông Tám là người nổi tiếng phúc hậu.

Xem thêm:   Đi với con, có người cho Má vịn tay

Ông làm phước cũng nhiều. Mấy cây cầu trong xóm kinh xáng mình, hết phân nửa là do ông Tám đốc thúc bắc cầu qua sông, qua rạch. Nếu cần tre, cần gáo cho mấy cây cầu qua mương nhỏ ổng cũng sẵn sàng cho gáo, cho tre.

Ở nhà quê mình có cái tình là như vậy. Chú còn nhớ ba cái vụ giúp đỡ, vần công, đổi công với nhau không? Nhất là công việc dựng nhà, lợp nhà là không bao giờ có vụ làm mướn lấy tiền công nghe chú. Người này chỉ đến tiếp giúp người kia dỡ nhà, dựng nhà, lợp nhà dù nhà ngói hoặc nhà lá. Tui tiếp chú, mai mốt chú tiếp tui, mà đặc biệt là nhiều lúc mình không có cho hay trước nghe chú.

Miễn thấy mình lu bu, bận rộn là người lớn trong xóm đích thân tới chẻ lạt, cột dây, đóng đinh, chuyền lá, chuyền ngói. Mỗi người một tay cho đến khi nhà kín đáo mới thôi. Còn người lớn nếu bận thì kêu con cháu nhơn ra lại tiếp giúp mình.

Riết rồi thành nề nếp, thói quen giúp đỡ lẫn nhau như anh em ruột thịt. Bởi vậy mà ở đây ai ai cũng biết câu này từ hồi ông bà mình còn sống nghe chú: “Bà con xa không bằng láng giềng gần”. Sống ở vườn cái tình là như vậy. Ngồi ngẫm nghĩ thâm thúy quá chú Ba!

Chú Ba bầy trẻ,

Hôm kia tui có viết lá thư hồi âm cảm ơn mấy em còn trẻ ở gần chú mà có lòng, luôn thương tưởng người nhà quê, dân dã. Viết rồi mà tôi cứ đắn đo, nghĩ ngợi hoài chú. Tui nghĩ đến cái tình người. Ở đâu cái tình người cũng tới được hết nếu người ta có lòng thương tưởng nhau phải không chú Ba? Không ai ngăn được giữa những trái tim biết yêu thương đến với nhau dù ở vườn hay ở chợ, dù người già hay người trẻ, dù người dân dã quê mùa hay người có học hành cao rộng. Tui phục cái tấm lòng đó nghe chú!

Vài dòng cho chú rõ. Chắc lâu lâu tui mới viết thơ nữa vì cũng sắp vào mùa cắt lúa hè thu. Miếng lúa gò, kế mả ông nội, vàng mơ rồi. Năm nay hạn hán quá, nên lúa không đặng trúng lắm chú Ba. Để cắt gặt xong, coi được bao nhiêu giạ một công tui viết thơ cho chú rõ nhe. Ngày mai, tui cũng ra Long xuyên coi lại cái phổi, đặng còn đốc thúc mấy đứa nhỏ coi chuẩn bị mùa màng. Lo hoài cho tới già cũng còn lo!

Thăm chú và thím Ba cùng mấy cháu mạnh giỏi.

Cuối thơ,

Hai Trầu

Trăng Trung Thu

Kinh Xáng Bốn Tổng ngày… tháng 8 năm 1999.

Thân gởi cháu Chi,

Chú nhận được mấy hàng cháu thăm hỏi về sức khỏe cùng công việc lúa thóc bên kinh xáng Bốn Tổng mình, làm chú mừng quá là mừng. Vì em cháu lúc nào cũng có lòng thương tưởng người nhà quê, người già lam lũ với ruộng nương, thật là cảm động. Rồi cháu còn nhờ chú kể về trăng rằm tháng Tám ở nhà quê, về Tết Trung Thu của mấy đứa nhỏ ở vườn… Câu hỏi nào cũng khó hết trọi cháu Chi à. Vì chú Hai bây giờ không còn bông bắng như hồi trước, tay chưn già nên lụm cụm, do đó cầm viết nó lập cà lập cập quá chừng nhưng cũng ráng viết cái thơ này cho cháu, sợ em cháu trông đợi.

Xem thêm:   Lá Thư Từ Kinh Xáng 1 (kỳ 4)

Trời đất nắng mưa vậy mà rằm tháng Tám hồi nào không kịp thở. Hèn gì, hổm rày mấy đứa cháu nội của chú Hai cùng con nít ở lối xóm rủ rê làm lồng đèn Trung Thu rần rần… Báo hại mấy bụi trúc của chú cũng bị tơi tả rã hành, ba xí ba tú, chưn hươu chưn nai vì ba cái vụ lồng đèn. Đứa xin bột khuấy hồ, đứa lấy cơm nguội dán tới, dán lui ba cái tờ giấy kiếng màu đỏ, màu xanh mà thành lồng đèn con cá, ngôi sao… Sắp nhỏ mừng lắm. Bầy trẻ đốt đèn cầy bên trong rồi xách tới, xách lui đi cùng xóm, vui lắm. Tụi nhỏ đã làm cho cái xóm Kinh Xáng vắng hoe này kể từ sau những ngày coi đá banh quốc tế nhà ông Tám vàm Ba Bần hồi tháng Sáu, nay trở lại nhộn nhịp… Rồi cũng bóp bụng mua bánh in nhưn đậu xanh, bánh bía, bánh xà lam, bánh trung thu cho sắp nhỏ chút đỉnh đặng con cháu nó vui. Chứ mùa lúa rồi thất bát quá cháu Chi à, nên việc túng hụt, lo đủ, lo thiếu như ma tà ám ảnh, người lớn rầu rĩ quá chừng, đâu có vui sướng gì mà Tết này, Tết nọ! Ở nhà quê mà, lúc nào cũng “liệu cơm gắp mắm” nhưng có khi đến thời trời rồi, mình cũng không “liệu” nổi nữa cháu Chi. Làm lụng là quyền của mình, nhưng có ăn hay không là do Trời nghe cháu, chứ chẳng chơi!

Như cái thơ trước chú có viết cho chú Tư Thế, lúa bị rầy, bị dông là “mất cả chì lẫn chài” đâu phải tại dân quê mình làm biếng, làm nhác, mà do Trời không thuận, gió không hòa là dân ruộng mình đành thúc thủ… Thế nên, hồi xưa ông bà mình hay van vái “lạy trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày, lấy đầy bát cơm…”, nghĩ cũng có lý lắm cháu Chi à…

Thời buổi này, nói như chú Hai nhiều người cho mình lạc hậu hằng trăm năm rồi, nhưng thực tế trên cánh đồng, trên bùn, trên kinh xáng, kinh đào, trên rạch, trên sông khắp vùng quê mình nhiều lúc nó đúng theo cái lạc hậu đó mới chết chứ! Không cách nào chối cãi được. Trời đất gió mưa thuận hòa mới có lúa mà ăn, có cơm mà sống, không ai cậy tài, cậy sức mà nói tui không cần trời, không cần đất, không cần gió, không cần mưa, không cần nắng mà sống được bao giờ; mà nhất là sống bằng cơm, sống với cơm chứ không ai dám tự phụ là tui “sống với chữ” bao giờ. Phải vậy hông cháu Chi? Chẳng khác nào ăn cơm mà nói tui không cần người làm ruộng, học hay chữ giỏi rồi bảo người nhà quê chữ dở, chữ ngu.

Nghĩ cho cùng không có người nhà quê làm gì có kẻ chợ; không có người dốt làm sao có được kẻ khôn; không có người lớn chịu ngu hèn làm gì có trẻ nhỏ học cao hiểu rộng; không có chậm tiến, lạc hậu của hạng thứ dân như tui làm sao biết được các lớp trẻ tiến bộ, văn minh… Thôi thì, còn nhiều lắm cháu à, nói hoài còn hoài, biết chừng nào mới hết chuyện đời khi có ngẫm, có suy này!

Xem thêm:   Suy Đi Ngẫm Lại (09/11/2025)

Cháu Chi mến,

Còn ở nhà quê mà nói đến trăng, nhất là trăng Trung Thu thì còn gì đẹp cho bằng ở đây cháu Chi! Trên cây, trên lá, trên cánh đồng nước ngập tháng Tám, trên con rạch, trên dòng sông, trên con đường làng, đâu đâu cũng trăng là trăng… Trăng chạy, trăng vui, trăng giỡn, trăng tắm ướt cả cánh đồng mênh mông nước là nước…

Vài cơn mưa chướng, gió cuộn trùng trùng, sóng nổi như cá sấu quậy rồi trời im đồng lặng, trăng lại bò lên từ trong đám mây đen, trăng lại tan mình vào cành lá, vườn cây, đường đất, lối mòn, bờ đê, bờ đập, khóm rau, bụi trúc, bụi tre, bờ chuối, tàu dừa làm thành muôn vẻ, muôn hình với trăng là trăng… Chú nhớ mài mại câu nhà Phật căn dặn: “Hãy nhìn vầng Trăng, đừng nhìn ngón tay chỉ vầng Trăng”.

Nhưng chú đã ghe phen tắm trăng trên đồng rồi đó cháu. Hồi còn trẻ chú Hai đã tắm trăng trên xuồng câu, tắm trăng trên luống cày, tắm trăng bên những bông lúa chín, tắm trăng suốt đêm bên đống lúa hột vừa được trâu bò đạp xong cái cà lang lúa cao như cái núi Sập. Chú cũng tắm trăng bên bờ đìa, bên bờ kinh với mâm rượu cùng mấy con cá lóc xỏ lụi nướng trui, thêm ba mớ rau thơm, rau mác, rau ngổ, rau đắng, nước mắm me mà ngất ngư với mấy lít rượu nếp trong ngần…

Rồi trăng làm đất trời, cảnh vật lóng lánh cùng chất rượu đế cay cay càng làm chú Hai thấy trời đất lung linh mà quên kiếp nghèo của dân ruộng như triền miên đeo đẳng hết kiếp, hết đời…

Rồi nào là trăng giã gạo chài ba, chài bốn; trăng cút bắt hồi nhỏ; trăng ca hát trên sông với chiếc xuồng trôi bềnh bồng tụ năm tụ bảy; trăng quết cốm dẹp; trăng “ngồi dựa bụi môn” giống Vân Tiên đón bồ đón bịch.

Về điểm này, chú nghe nhật trình nói Vân Tiên ngồi “dưới”, ngồi “núp” đủ thứ, nhưng ở quê chú người nhà quê nói ngồi “dựa” quen miệng rồi, nên không sửa được.

Bây giờ ngồi nhớ lại ba cái vụ bồ với bịch ở nhà quê nhiều khi mắc cỡ gần chết cháu à. Rồi nhiều lúc chú Hai nghĩ tuổi nào thời nấy của nó, nhưng không tránh khỏi thẹn thùng khi nhớ những ngày còn con nít, thanh niên… Con nít hồn nhiên, thanh niên vô tư lự, nhưng hay đòi cưới vợ gả chồng; đứng tuổi lo bề gia thất sum sê tiền của, lúa thóc cho con cháu mai hậu; già lo bịnh hoạn ốm đau, thuốc thang ấp lẩm phát rầu…

Vậy đó cháu, một đời người bao nhiêu thời kỳ, bao nhiêu giai đoạn mà ai cũng phải bước qua… Nhiều lúc nghĩ ngợi đâm ra mình vô dụng quá mạng! Nhưng nói vậy cho cháu nghe chơi, chứ đừng để bụng làm gì ba cái ý cũ mèm của chú, vì nó chẳng ăn nhập gì với đời sống mấy em, mấy cháu thời buổi văn minh hiện đại tại các nước tân tiến Tây phương.

Hôm nào rảnh rỗi, chú Hai ra nhà ông Bảy trên Mặc Cần Dưng, cách kinh xáng Bốn Tổng mình một cánh đồng lớn, nhờ ổng viết về ba cái trăng sáng vằng vặc bốn mùa để chú gởi qua cho cháu đọc vì chú hết chữ rồi mà cũng cạn ý nữa… Cái thơ bữa nay dài bộn, có lời lẽ gì không phải, em cháu châm chước bỏ qua cho chú Hai nhe!

Chú gởi lời thăm cháu cùng mấy em cháu ở cái làng Ô Thước trên trời mạnh giỏi… Hẹn lại cháu lá thư kỳ tới nhe.

Cuối thơ,

 Hai Trầu

(còn tiếp)