Mùa hè 72 Sàigòn mê mệt với phim Été 42 trên nền nhạc “The Summer Knows” của Michel Legrand. Tôi trong số các thiếu nhi si mê nữ tài tử Jennifer O’Neill. Mùa hè đó tôi còn thuê cuốn 15 Truyện Nghỉ Hè do Nguyễn Tú An phóng tác. Hôm nay đánh máy lại, vì mùa hè lại đến.
(Trần Vũ)
Truyện nghỉ hè
Nguyễn Tú An phóng tác
Chúng tôi ngồi xúm quanh ông Bích, nghe ông kể chuyện. Những đêm hè rỗi rãi, bao giờ ông cũng tra nhắc lại những kỷ niệm ngày xưa. Có lẽ đây là tính tự nhiên của những người già, thứ đức tính đáng yêu, gắn bó tình thân ái giữa già với trẻ.
Ông từng trải nhiều: nên câu chuyện bao giờ cũng đậm đà.
Bữa đó chúng tôi hết chuyện rừng, núi, tới chuyện đi săn, rồi chuyện… sợ ma, sợ cọp. Ông Bích đợi cho chúng tôi chán rồi mới thủng thẳng:
– Sợ hả? Bệnh sợ là thứ bệnh kỳ quái, ít ai tránh được. Nhưng nghĩ cho cùng, chín phần mười những người nhát, trái lại, đều là những tay gan dạ tày trời, mà chính họ không tự biết đấy thôi.
Ông châm điếu thuốc, bập một hơi dài, mơ màng nhìn làn khói mong manh tan đi trong ánh trăng, nói tiếp:
– Theo tôi, một số người quá nhũn nhặn, có mặc cảm về sự thua kém tưởng tượng của mình nên đâm ra nhát sợ đấy thôi… Hạng người đó, chỉ cần gặp một dịp bất ngờ phải đương đầu với khó khăn, là tự nhiên bộc lộ hết khả năng, trở thành bạo dạn ghê gớm. Để tôi kể chuyện thầy ký Nhu bắn tê giác cho các cháu nghe, các cháu thấy tôi không nói sai đâu!
Cách đây vài chục năm, tôi với chú Tư có môn bài khai thác lâm sản trên cao nguyên. Nói khai thác lâm sản cho nó oai, chứ thực ra công việc đều có cai thầu hết. Suốt ngày anh em tôi chỉ lang thang đi săn.
Các cháu không rõ chứ hồi đó, miền cao nguyên của mình không thiếu gì thú rừng, mà toàn những loại đặc biệt như mang với bò tót thì to không kém gì thú Phi Châu. Tuy không có sư tử nhưng lại có hổ. Mà săn hổ thú vị hơn nhiều. Hổ cao nguyên của ta vừa lớn con vừa tốt mã hơn hổ Mã Lai kìa! Chúng tôi mê đi săn là phải! Công việc kinh doanh gần như giao trọn cho thầy ký Nhu.
Thầy Nhu đúng là trời sinh ra để làm nghề cạo giấy, vừa hiền lành vừa nhũn nhặn. Lúc nào cũng như lúc nào, thầy ta chĩnh chện khăn đóng áo dài ngồi trước bàn giấy, trò chuyện nhỏ lẻ với đám cai và phu. Dáng điệu mảnh mai, bộ quần áo lượt thượt của thầy chẳng thích hợp với khung cảnh núi rừng này chút nào.
Thầy Nhu không thể hiểu được tại sao chúng tôi lại ham mê săn bắn? Theo thầy ta, giết hại thú rừng là một thú giải trí tàn nhẫn.
Nhiều lần chú Tư bàn với tôi nên đưa thầy đi chơi một chuyến, săn hươu nai thôi, để cho nếp sống nơi rừng xanh núi đỏ của thầy bớt tù túng đôi chút, nhưng thầy không chịu.
– Thú thực với các ông, chỉ sờ tới khẩu súng săn là tôi đã nổi da gà rồi. Các ông tha cho!
Thực ra thì thầy chẳng hề biết thể thao là gì, kể cả đánh bóng bàn. Ngoài giờ làm việc, thú vui độc nhất của thầy ta là đọc thơ Đường, với nghiên cứu vài tập Nam Phong cũ.
Vậy mà dần dà, chẳng hiểu chú em tôi dụ dỗ làm sao mà bữa đó, thầy vui lòng theo chúng tôi đi săn. Tôi ngờ là thằng quỷ đó chế giễu quá, cực chẳng đã thầy ta phải đánh liều một chuyến cho xong nợ!
Chúng tôi tính đi theo dọc sông, kiếm con trâu rừng cũng hay. Mới đi lần đầu mà bắt thầy ta băng rừng thì cực quá, tôi không nỡ.
Mới tảng sáng, ba chúng tôi đã khởi hành. Tôi với chú Tư mang súng lớn. Thầy ký Nhu giao hẹn chỉ nhận lời đi chơi, nhất định không chịu bắn phát nào; nhưng tôi cũng ép thầy cầm khẩu súng nhẹ, lấy cớ:
– Trong vùng rừng núi, thú dữ nhảy ra bất ngờ, ta phải đề phòng chứ! Thầy cứ giữ khẩu súng này, gặp nguy hiểm hãy nổ súng, đã sao!
Thầy miễn cưỡng theo lời.
Tôi hơi ngạc nhiên: trong bộ đồ săn mượn của chú em tôi, vai khoác súng, trông thầy ta nhanh nhẹn khác hẳn ngày thường, chẳng khác gì tay thợ săn nhà nghề.
–oOo–
Đi khoảng hai giờ đồng hồ mới tới bờ sông. Chúng tôi ngồi nghỉ trên bãi cỏ, ăn uống ngon lành rồi tôi với chú Tư xuống sát đám lau sậy ven sông để rình thú rừng tới uống nước. Thầy Nhu ngồi đó ngắm cảnh, ngâm thơ và giữ trại một thể.
Tuy chỗ núp chỉ cách thầy khoảng ba trăm thước mà chúng tôi cũng thấy thầy nhấp nhổm không ngồi yên. Tôi đã dặn trước:
– Thầy cứ ở đó, đừng đi đâu, chẳng có gì đáng ngại mà lo!
Đã dặn thế mà chốc chốc tôi lại thấy thầy nhổm dậy nhìn xem chúng tôi còn đó không. Nhát đâu mà nhát vậy!
Chúng tôi lội xuống giữa đám lau sậy, bùn ngập tới gối. Từng đàn chim nước bay tứ tung. Chẳng thấy dấu con thú nào băng ngang khoảng ghềnh đá. Tôi vẫn kiên gan: mới bữa trước có hai người Thượng cho tôi biết lũ bò tót thường hay ghé đây vào buổi trưa, còn mang hay tê giác có thể đến bất thần… Cứ rình là thể nào cũng gặp.
Chợt tôi nghe tiếng cành gãy răng rắc về phía cửa rừng, rồi có tiếng đặc biệt, nghe lạ tai lắm. Vài phút sau, từ trong bụi rậm nhô ra một con tê giác. Kế đó là con thứ hai… và sau chót, con thứ ba. Chúng phóng tới chỗ thầy ký Nhu đang ngồi.
Vừa vướng lau sậy, lại mắc chân trong bùn, thêm nữa khoảng cách cũng khá xa nên anh em tôi không sao can thiệp kịp. Mà nổ súng loạn xạ cũng vô ích, chỉ làm lũ thú rừng bực mình thêm. Tôi sợ toát cả mồ hôi.
Chắc lũ tê giác trông thấy thầy ký rồi. Cả ba con cùng phóng đi như ba chiếc đầu tàu. Mặt đất rung chuyển như sắp nứt. Chú Tư rên rỉ:
– Thầy ký nguy mất… anh ơi! Tại mình cả!
Tôi cũng tin vậy… Chẳng còn lối nào chạy được, chẳng có cây cối nào để trèo lên. Dù cho thầy ta có nổ súng cũng chẳng sao hạ nổi ba con vật ghê gớm này bằng hai phát đạn. Tình trạng thực bi đát!
Các cháu nên nhớ là bắn tê giác phải bắn vào óc hay vào tim… nghĩa là phải trúng sau tai hay dưới bả vai mới hòng làm nó chết ngay được. Muốn bắn như vậy thợ săn phải đứng nghiêng kia; đàng này xông tới như tàu hỏa, thành thử trước mặt mình chỉ thấy lù lù có cái đầu với cặp sừng rắn như đá che kín cả óc, cả tim thì bắn gì!… Cái khó là ở chỗ đó.
Vậy mà chuyện không ngờ đã xảy ra.
Chính mắt chúng tôi trông thấy rõ ràng, thầy ký Nhu, con người nhút nhát như thỏ đế xưa nay, bình tĩnh đưa súng ngang vai, lạnh lùng đứng đợi con vật. Thú thực với các anh, xưa nay phải những tay súng cừ khôi, tự tin và gan dạ hết sức mới dám làm như vậy.
Thầy ký Nhu đứng thẳng không nói một lời, không nhích một bước. Mũi súng chĩa thẳng vào con tê giác đi giữa đang lao tới.
Con vật mỗi lúc một gần. Cách khoảng bốn thước thầy ta mới nổ súng. Chỉ có một phát mà con tê giác nặng gần hai tấn ngã lăn ra, nằm vật ngay dưới chân thầy. Hai con kia đang đà chạy, vướng phải xác con bạn nên rẽ ra hai phía, phóng thẳng tới bờ sông.
Chú Tư và tôi lúc này đã lên khỏi vũng bùn, mỗi người hạ một con không khó khăn gì, vì đôi tê giác chạy ngang ngay trước mặt, thành thử con nào cũng trúng đạn ngay sau tai.
Chúng tôi chạy lại chỗ thầy ký, em tôi reo lên:
– Hay tuyệt! Thầy bắn cừ quá.
– Có gì đâu. Tôi nhắm đúng vào chỗ cổ con vật nối vào mình. Tôi nghĩ chừng chỉ chỗ đó là da mỏng, may ra mới thủng thôi. Ai ngờ hạ được nó thực!
Thành ra chỉ do trực giác mà thầy ký Nhu tìm được nhược điểm của con vật. Tôi có nghe vài tay thiện xạ nói tới điểm này, nhưng bắn như vậy rất khó, lại phải chờ con vật tới thực gần. Các cháu nghĩ coi. Có can đảm chờ một con vật khủng khiếp như tê giác đến sát chân mới bắn, hỏi có mấy người?
Vậy mà thầy ký Nhu thành công ngay phát súng đầu tiên mới kỳ!
Thầy bảo chúng tôi, giọng nhỏ nhẹ như thường lệ:
– Hai ông ạ, tôi không có thì giờ để sợ nữa. Việc xảy ra nhanh chóng quá, thành thử chỉ kịp chú ý nhắm cho trúng đích, thế thôi… Không ngờ… Thực không ngờ!
Thì ra con người thư sinh trước đây chúng tôi vẫn giễu cợt lại có đủ đức tính hiếm hoi: gan dạ, bình tĩnh cần thiết cho nhà thiện xạ, mà không ai hay.
–oOo–
Từ đó, thầy ký Nhu không còn sợ súng, cũng như không còn sợ bất cứ loài ác thú nào, từ voi tới hổ, báo. Vài năm sau, thầy nghỉ việc, nhập ngũ, lập nhiều chiến công và nổi tiếng là một sĩ quan gan lì!
Rồi ông Bích kết luận:
– Tôi nghĩ ngợi mãi. Có lẽ nếu không có chuyến săn tê giác thì vị tất thầy ký Nhu đã đổi khác được như vậy, phải không các cháu?
Kể ra cũng có lý.
NTA phóng tác
Nxb Sống Mới, Sàigòn 1972
Trần Vũ đánh máy lại tháng 6-2025