Lúc trẻ, tôi thích Võ Hồng. Khi già, tôi ưa Võ Phiến. Ông viết không nhiều (lắm) nên tác phẩm nào tôi cũng đọc đi/đọc lại đôi lần. Xong thì quên luôn tựa truyện nhưng tên tuổi những nhân vật của Võ Phiến thì độc giả muốn quên cũng khó:

  • Ngô Thế Vinh: “Trước khi quen biết nhà văn Võ Phiến, tôi đã rất thân quen với những nhân vật tiểu thuyết của ông như anh Ba Thê đồng thời, anh Bốn thôi, ông Năm tản, ông tú Từ lâm, chị Bốn chìa vôi từ các tác phẩm Giã từ, Lại Thư nhà, Một mình…”
  • Thụy Khuê: “Ở miền Nam những năm 60, khi lớp trẻ đọc thơ Nguyên Sa, hát Tiễn em của Phạm Duy, Cung Trầm Tưởng… thì Võ Phiến đưa ra những nhân vật quê mùa, tầm thường, như anh Bốn Thôi, ông Ba Thê Đồng Thời, chị Bốn Tản, Bốn Chìa Vôi, những thân phận lạc loài, không hẫp dẫn, chẳng ai bận tâm, mất thì giờ mô tả. Đó là những mảnh vụn, thừa thẹo của xã hội, sống âm thầm như chưa hề có mặt”.
  • Nguyễn Mộng Giác: “Nhân vật của Võ Phiến hầu hết là dân quê mùa ít học, quanh năm không có lấy vài phút sống cho được tới mức tạm gọi là sang trọng đầy đủ. Tên của họ là những anh Bốn Thôi, ông Ba Đồng Thời, chị Bốn Chìa Vôi, Ông Bốn Tản Cư, ông thập Tam, cô Tư Lớn…”

Nói nào ngay, ông Ba Thê (BT) tuy “ít học” thật nhưng “quê mùa” thì không đến nỗi:

“Hồi xuân xanh ông Ba Thê đẹp trai, vui vẻ, lanh lợi, khiến ai thoáng trông qua cũng phải chú ý. Cho nên ông không cần khó khăn gì cả mà tự nhiên đi đến đâu có bạn bè, có nhân tình nhân ngãi đến đó, rồi không cần tìm kiếm mà tự nhiên cơ hội đến: ông ta được vào lính khố xanh dễ dàng, được thăng lên cai, lên đội lúc nào, tựa hồ như không kịp để ý tới”. (Võ Phiến. Giã Từ. Thời Mới: 1967).

Rồi chỉ vì bài bạc nên BT bị “lột lon cho về làm dân” mà không có đồng xu cắc bạc hưu bổng nào ráo trọi. Túng nên phải tính, phải vay mượn (loanh quanh) nhưng cách “xoay sở” của ông ta – xem ra – cũng không vất vả gì cho lắm.

Xem thêm:   Khám đường Alcatraz!

Thay vì đi gõ cửa từng nhà thì BT sai con mang phong thư đến. Nội dung chỉ vỏn vẹn mấy dòng chữ nho nhỏ (“Qui Nhơn le…Cher ami,”) viết trên một tấm danh thiếp con con, nhắc lại chút tình quen biết cũ và hoàn cảnh khó khăn hiện tại…

Giản dị vậy thôi mà BT vẫn nuôi được cả nhà và (đôi lúc) lại còn có dư ra chút đỉnh, đủ để chung chi cho một độ chọi gà. Giá cứ như thế mãi thì cũng ổn thôi, nếu thời thế đừng thay đổi. Mà thế thời thì tránh sao được chuyện đổi thay, dâu bể!

Hoàn cảnh của ông BT khiến tôi nhớ đến dăm câu của cổ nhân:

Lép nhép vài hàng tỏi
Lơ thơ mấy khóm gừng
Vẻ chi là cảnh mọn
Thế mà cũng tang thương
(Ôn Như Hầu – Nguyễn Gia Thiều. “Ra Xem Vườn Sau Khi Trời Mưa”).

Chỉ sau một cơn mưa mà “cảnh mọn” còn “tang thương” thì nói chi đến một cuộc bể dâu:

Sau biến cố chính trị mùa thu năm 1945, ông Ba Thê liền đổi lốt, chọn một cuộc sống mới. Không phải rằng ông ta chịu nhận một nghề, nhưng chính là vì vẫn không có nghề nghiệp mà ông ta thành ra một kẻ hoạt động hăng hái theo lối mới. Hoạt động lối mới cần nhất ở cái mồm…

Nói cách khác, giai đoạn mới, ông đội Ba Thê ăn rồi toàn đi nói chính trị, khắp từ đầu làng tới cuối xóm … Ở chỗ công cộng, những khi đăng đàn phát biểu ý kiến, ông Ba Thê, đang thao thao diễn giảng, nếu thình lình thiếu ý, lúng túng, ông ta liền quẩn xung quanh một vài khẩu hiệu thật rỗng và thật rổn rảng … Ta ziết zặc zữ nước, đồng thời ta xây dựng con người mới, đồng thời tiến về…” Ông Ba Thê biến ra ông Ba Thê Đồng Thời trong trường hợp như vậy.

Tôi vốn có một ông bác già ưu thời mẫn thế. Nhưng tất cả sự đóng góp của người vào công cuộc cách mạng chung quy cũng chỉ trông cậy vào ba tấc lưỡi dùng để… động viên kẻ khác. Đối với kẻ hoang đàng nhác nhớn, người khuyên nên nghĩ đến đại cuộc. Đối với kẻ bủn xỉn ngần ngại trước những cuộc quyên góp, người cũng khuyên nên nghĩ tới đại cuộc… ông bác của tôi bèn mang thêm cái tên mới: “Ông Đại Cuộc”…

Nếu chịu khó bươi xới kho tàng ngôn ngữ của dân tộc như các nhà khảo cổ quật lên từng lớp đất, chắc chắn chỉ riêng cái cách ăn nói cũng giúp ta hiểu được nhiều về tâm lý, về cách sinh hoạt, về tổ chức xã hội, về đường lối chính trị … của mỗi thời. (V.P, s.đ.d).

Xem thêm:   Điện gió nên hay không?

Thời nay thì chả phải mất công “bươi xới kho tàng ngôn ngữ” mà chỉ cần lướt net là cũng “hiểu được nhiều về tâm lý, về cách sinh hoạt, về tổ chức xã hội, về đường lối chính trị” của chế độ hiện hành.

Blogger Trân Văn (VOA) nhận xét:

“Nếu ông Nguyễn Xuân Phúc – tiền nhiệm của ông Chính – thường xuyên khuyến khích các ngành, các địa phương trở thành… ‘đầu tàu’ … ông Chính – nhân vật kế nhiệm – lại rất yêu… ‘đột phá’.

Không chỉ động viên các ngành, các địa phương… ‘đột phá’, ông Chính còn khuyên các doanh nghiệp ngoại quốc đầu tư vào Việt Nam (FDI) tham gia ‘đột phá’ nếu muốn phát triển. Thậm chí ông Chính còn đề nghị những quốc gia khác nên cùng Việt Nam… ‘đột phá”!

Ôi! Tưởng gì chớ “đột phá” thì chả phải là chuyện mới mẻ chi. Trước Phạm Minh Chính, Nguyễn Thanh Sơn (Thứ Trưởng Bộ Ngoại Giao – Chủ Nhiệm Ủy Ban Nhà Nước Về Người Việt Nam Ở Nước Ngoài) cũng thế, cũng cứ mở mồm ra là “đột phá” rầm rầm.

Mà dường như tất cả quý vị lãnh tụ đều như vậy cả, đều ăn nói theo cùng một sách, đều có những cụm từ quen thuộc, bất biến, (và rỗng tuếch) ở đầu môi: “vận dụng nội lực”, “phát huy văn hóa”, “phát triển bền vững ”, “đi tắt đón đầu”, “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại”, “sánh vai cùng cường quốc năm châu” …

G.S Nguyễn Văn Tuấn buồn rầu kết luận: “Có thể nói rằng rất nhiều bài nói chuyện và diễn văn của các lãnh đạo VN chỉ là những khẩu hiệu được lắp ráp vào với nhau”. Cứ thế, họ biến tình hình tồi tệ của xứ sở này thành một đề tài riễu cợt cho thiên hạ cười chơi – khi trà dư/tửu hậu: “Trên thế giới chia ra gồm nước phát triển, nước đang phát triển, nước chậm phát triển nhưng Việt Nam có lẽ là mô hình đặc biệt nhất. Đó là nước… không chịu phát triển”!

Xem thêm:   Lừa đảo đặt phòng khách sạn

Chớ có nước nào mà phát triển … bằng mồm được, mấy cha? Chả những thế, kiểu “lắp ráp” và “hô hoán khẩu hiệu” của đám lãnh đạo lưỡi gỗ còn gây ra lắm điều phiền toái hay tai hại khác:

“Ý đồ của ngôn ngữ này, theo Orwell phân tích, ta có thể gọi là ‘lưỡi gỗ’ không phải là mở rộng phạm vi hoạt động của tư tưởng. Trái lại, nó thu hẹp phạm vi của tư tưởng. Một trong những thủ đoạn của nó là cắt bỏ từ vựng, chỉ cho sử dụng một vốn từ vựng rất ít ỏi, rất nghèo nàn. Chức năng này của các ngôn từ không phải để diễn đạt tư tưởng mà nhằm hủy diệt bớt tư tưởng… Mục tiêu tối hậu của ngôn ngữ mới này là cầm tù tư tưởng, biến con người thành đàn bọ, đàn kiến, như Orwell đã từng viết”. (Bạch Thái Quốc. “1984  Của G. Orwell: 70 Năm Lời Cáo Buộc Chế Độ Toàn Trị”. RFI – 10/07/2019).

Như đa phần những người Việt khác, tôi cũng chỉ là một “cọng rêu dưới đáy ao” nên không có được cái tầm nhìn cao xa đến vậy. Phận thường dân, tôi chỉ thấy hơi sốt ruột về tình trạng “không chịu phát triển” (và rất xót dạ cho những đồng hương thấp cổ bé miệng) ở đất nước mình.

Không hiểu quý vị lãnh tụ (Đầu Tầu, Đột Phá, Đi Tắt Đón Đầu, Vận Dụng Nội Lực, Phát Huy Văn Hóa …) có “ý đồ” chi trong việc “tha hóa ngôn ngữ ” hay không (?) chớ còn ông Ba Thê Đồng Thời và ông Đại Cuộc thì đơn thuần chỉ là nạn nhân của thời cuộc thôi. Nói theo Võ Phiến thì họ chỉ “những chiếc lá mục bết bùn ở dưới đáy sông” nhưng cũng phải “cựa quậy ve vẩy” (đôi ba khẩu hiệu) để thích ứng với thế thời, trước một cơn gió bụi hoặc một cuộc hý trường. Vẻ chi là cảnh mọn/ Thế mà cũng tang thương!

TNT