Từ năm 1954, Cap Saint Jacques mới trở thành vùng biển du lịch của dân Sài Gòn. Nhưng thực tế rất ít người dân đi Cấp tắm biển. Mãi đến giữa thập niên 1960, phương tiện di chuyển cá nhân bằng xe Honda phổ biến thì Cấp được biết đến nhiều hơn với cái tên Vũng Tàu.
Tôi nhớ năm đó, ba tôi sắm được chiếc xe Honda 68 mới toanh nhưng lúc nào cũng “trùm mền” trong nhà, ít có dịp đi đây đó vì nghiệp binh lửa luôn phải xa gia đình. Rồi, một ngày chiều thứ Sáu cuối tuần, từ quân đoàn về, ba nói với chúng tôi “ngày mai đi Cấp chơi”. Cuộc đi chơi xa chẳng cần chuẩn bị trước, nói đi là đi. Má tôi chỉ kịp gói ghém ít quần áo cho ba cha con, còn ăn uống thì ba bảo đi đường gặp gì ăn nấy.
Tôi không biết bắt đầu chuyện Cấp của ngày xưa như thế nào vì có quá nhiều hình ảnh gợi nhớ những hoài niệm. Và không hiểu sao, suốt một thời gian dài, tôi chẳng hề nhớ gì cả, mặc dầu đó là chuyến đi chơi đầu tiên trong cuộc đời của một đứa trẻ con, và sau này, khi trưởng thành tôi có hàng chục lần đi chơi Vũng Tàu với bạn bè. Mãi cho đến bây giờ, ở cái tuổi đầu điểm hai màu tóc thì tôi lại nhớ, nhớ từng chi tiết chuyến đi mà tôi cứ ngỡ như là chuyện của mới ngày hôm qua. Già rồi! Chỉ có người già mới sống bằng ký ức, cố níu ký ức một thời để khơi gợi quãng thời gian đẹp đẽ mà mình từng trải qua.
Ba cột cái túi đồ phía sau yên xe, hai anh em tôi ngồi ở phía trước. Tôi lớn nên ngồi phía đầu để che gió cho thằng em kế ngồi giữa. Chiếc xe nổ máy rời nhà bon bon trên đường Sài Gòn hướng ra xa lộ Biên Hòa. Tôi không rõ, một đứa trẻ con trí óc non nớt sao lại nhớ từng con đường như thế. Có thể những ký ức ngày xưa trộn lẫn với những gì tôi nhận biết sau này vào thời sinh viên và tôi gom vô thành một. Nhưng điều đó không quan trọng, cũng có thể hình ảnh đó không chính xác nhưng ít ra nó lẩn khuất đâu trong góc ký ức rồi bỗng hiện ra khi nhìn lại những tấm ảnh Vũng Tàu ngày xưa. Cái hình mũi tên trắng ở ngã ba Biên Hòa – Vũng Tàu hiện ra. Tôi nhớ lời ba nói bên tai: “Ði thẳng con đường này là ra Ô Cấp”.
Vào thời 67-68 chỉ có những người như ba tôi mới gọi Vũng Tàu là Ô Cấp hay nhiều người nói một chữ Cấp cho gọn. Thật ra, theo tập sách “Vũng Tàu xưa” của nhà biên khảo Huỳnh Minh cho biết, tên gọi Vũng Tàu đã có từ xa xưa, trước khi người Bồ Ðào Nha đi tàu qua mũi đất này lấy tên Thánh Jacques đặt cho nó. Kế đến người Pháp cũng gọi vùng này là Cap Saint Jacques, người Việt gọi trại thành Cấp hay Ô Cấp (au Cap) cho cái mũi đất nằm ở cực Ðông của Vũng Tàu là Mũi Nghinh Phong. Ô Cấp xuất hiện chính thức trên bản đồ hành chánh cách nay gần trăm năm. Việc đổi tên một thành phố cần rất nhiều thời gian để thay đổi thói quen cách gọi, giống như nhiều người vẫn quen gọi thành phố Sài Gòn cho dù thời thế có đổi thay đến trăm năm đi nữa.
Ði Cấp tắm biển là điều xa xỉ với người lao động bình dân Sài Gòn thời đó. Vũng Tàu là khu du lịch biển, hình thành từ trước đó rất lâu, làm nơi nghỉ mát của người Pháp, vua Bảo Ðại và các tướng lãnh VNCH. Trong thời chiến tranh, quân đội Mỹ, Úc cũng chọn nơi đây làm chỗ nghỉ ngơi và vui chơi. Vào giai đoạn này nhiều căn cứ quân sự của Mỹ và quân đồng minh được xây dựng trên khu Núi Lớn, Núi Nhỏ và nhiều nơi khác trong khu vực. Mặt khác, trong thời chiến tranh tao loạn, quốc lộ 15 đi Vũng Tàu vẫn còn rất nhiêu khê, không an ninh vào ban đêm, nhiều đoạn đường trải đất đá, xe đò Liên Hiệp chạy tuyến Sài Gòn-Vũng Tàu chỉ vài chiếc chở khách, đa phần xe nhà chở hàng hóa của giới thương buôn.
Vũng Tàu là cái gì đó lạ lẫm trong mắt một đứa trẻ con như tôi lần đầu được đi chơi biển. Bãi Sau còn vắng, lèo tèo vài chỗ cho thuê dù, ghế bố, tắm nước ngọt. Người tắm biển không nhiều như bây giờ. Tôi chợt bắt gặp tấm ảnh tảng đá bằng phẳng ngày xưa nằm trên bãi cát gần Hòn Bà, nơi ba cha con sau một hồi vui đùa tìm ốc bắt còng quanh bãi đá gần đó mỏi rã người, ngồi ngả lưng nghỉ mệt. Ðó là cảnh đằm thắm nhất trong kỷ niệm gia đình. Ngồi trên tảng đá nhỏ này tôi hướng mắt về phía Bạch Dinh gần Bãi Dứa mà chốc nữa thôi, chúng tôi sẽ thả bộ men theo bãi cát khi triều xuống để đến xem bên ngoài nơi nghỉ mát của vua Bảo Ðại một thời xa xưa.
Nhưng Bạch Dinh đối với tôi, chẳng có gì thú vị để xem vì mình không thể ngang nhiên bước vào chiêm ngưỡng. Những con cá nhỏ bị sóng đánh dạt vào các hốc đá do anh em tôi dùng tay bóc cát, tạo thành một cái vũng to bằng cái nia mới là niềm vui của thế giới trẻ con nô đùa bên bãi biển. Một con cá bé bằng ngón tay cái, da xám chấm đen nằm yên trong lòng bàn tay bé nhỏ của tôi bỗng chốc thân mình nó từ từ phình to ra. Ba nói đó là cá nóc, khi lớn da cá có gai, cá này có độc không ai ăn. Nhưng đến khi đi vòng ra Bãi Dứa, đứng xem đoàn người kéo lưới chiều, tôi thấy những con cá nóc to bằng cườm chân người lớn, người ta bắt bỏ vào giỏ tre cũng bộn. Ba tôi hỏi ra mới biết, người ta đem cá nóc bán cho nhà hàng. Ba tôi không nói gì thêm cho cái chuyện cá nóc không ăn được mà lại rủ chúng tôi đi bắt dã tràng. Dã tràng se cát biển Ðông. Những con dã tràng thoắt ra thoắt vô cái hang, tạo thành những viên cát nhỏ chi chít trên mặt cát ướt khiến tôi nhớ đến câu ca dao cô giáo vừa mới dạy tuần rồi.
Nhưng điều làm tôi nhớ nhất là hình ảnh bãi Trước với hàng dừa xanh dọc theo bờ cát. Một hình ảnh nên thơ và nhẹ nhàng dễ đi vào lòng người, nhất là kỷ niệm khi tôi được ngủ một đêm dưới “khách sạn ngàn sao”. Nơi đây có mấy kiosk xây bằng gạch bên ngoài tô đá rửa. Người ta bán hàng mỹ nghệ vỏ ốc và cá nóc phơi khô phình to như trái sầu riêng, lại có nơi bán nước giải khát, cơm bình dân cho du khách không tiện ghé nhà hàng khách sạn sang trọng vì túi tiền ít ỏi. Tôi nhớ chỗ ngủ là những hàng ghế bố xếp bằng vải màu xanh rêu nhà binh sắp đặt san sát một hàng dài. Ba tôi thuê hai chiếc ghế bố ngủ đêm sau nửa ngày ba cha con lang thang khám phá trên bãi biển cho đến lúc chiều buông.
Tôi cũng không hiểu sao thời đó Vũng Tàu đã có điện nhưng những kiosk người ta lại dùng đèn khí đá. Ánh sáng vàng vọt, lập lòe mờ tỏ trên mặt cát khi màn đêm phủ kín biển làm cảnh vật trở nên u buồn, không còn nét thơ mộng của cảnh biển ban ngày, cho dù trên bầu trời đêm cao vút kia có hàng triệu ánh đèn pha lê đang lấp lánh. Phía trước mặt, xa xa cũng có ánh sáng lập lòe trông như những ngôi sao rơi xếp hàng ngang của những thuyền chài câu mực. Chốc chốc, ánh sáng từ ngọn hải đăng, có từ thời Pháp thuộc, quét ngang trên bầu trời. Tôi nằm thao thức giữa bầu trời lộng gió ngàn sao, một bên là Núi Lớn và một bên là Núi Nhỏ, mắt nhìn bầu trời đen treo đầy ánh đèn của một câu chuyện cổ tích, tai lắng nghe tiếng sóng xa bờ rì rào và thỉnh thoảng gió đưa tiếng đại bác vọng về từ cõi xa xăm. Rồi bỗng nghe vài tiếng “bụp… chắc bụp”, trời đen sáng tỏ ánh hỏa châu rơi trên vùng Núi Lớn. Ba tôi xoay sang hỏi: “Sao giờ này chưa ngủ?”. Tôi nằm nhắm mắt, lòng mong cho trời mau sáng để về nhà.
Cái ghế bố tôi và thằng em nằm được xếp lại sau cùng mặc dầu mặt trời chỉ vừa nhú khỏi mặt nước biển xanh đen. Cái “khách sạn ngàn sao” biến mất, nhường chỗ cho người ta bày bàn ghế bán cà phê buổi sáng. Ba cha con tôi không ăn sáng tại đây. Ba gói ghém cột đồ sau yên xe rồi chở chúng tôi đi chợ Vũng Tàu ăn phở. Hồi đó, tiệm ăn ở Vũng Tàu không có nhiều như bây giờ nên vài tiệm gần chợ lúc nào cũng đông khách. Ăn xong, chúng tôi ghé vào chợ cửa Tây mua vài gói mắm ruốc “Bà giáo Thảo” mang về.
Thời gian như bóng câu qua cửa sổ, mới đó mà thoát hơn nửa thế kỷ, cuộc sống vật đổi sao dời. Rồi một ngày khi ta bất chợt thấy lại hình ảnh xưa, lòng bỗng chùng xuống, khiến ta hình dung đầy đủ về cuộc đời mình, về cái quãng đời thơ ấu dù chỉ là một thời gian ngắn ngủi lần đầu đặt chân đến vùng đất “Cấp của ngày xưa”. Và, nhớ nhung nó vô cùng.
TN