Anh đến nơi khi chiều muộn. Anh bước ra xe và nhìn đồng hồ. 16 giờ 35. Chiều Thứ Sáu. Cuối Tháng Mười. Anh đưa mắt ngắm nhìn quang cảnh ngôi nhà, mảnh vườn. Không thấy nhiều thay đổi sau ngần ấy thập niên. Nắng Thu rắc ánh sáng đục lờ lên khu vườn hoang. Bãi cỏ lâu không người cắt. Những trái táo chín rữa nằm vương vãi quanh gốc. Những bụi thược dược héo úa. Cỏ dại um tùm khắp nơi.

Anh bước vào. Những bước chân lê nặng ký ức và thở dài phiền muộn trên lối đi ngập xác lá. Bất chợt một tràng tiếng chim oang oác xé rách cõi không gian lặng lẽ. Anh ngước mắt tìm và thoáng thấy những nhịp đập hối hả của một cánh chim vút bay từ tán lá rậm.

Anh đảo mắt quanh quất. Tia nhìn dừng lại giây lát nơi khung kính cửa sổ nhà hàng xóm. Nơi đấy, anh vừa thoáng thấy bóng ai ẩn sau lớp kính phản chiếu lớp mây trời.

Bất chợt tấm rèm cửa được kéo lại vội vã.

“Theo bản di chúc, ông là người, đúng quy tắc và độc nhất, thừa kế ngôi nhà và số tiền của người quá cố để lại trong ngân hàng”, ông chưởng khế giải thích thêm, sau khi xướng giọng đơn điệu đọc tờ di cảo, và nhìn thẳng vào mắt anh. “Ông sẽ nhận được ngay một bản phóng ảnh tờ di chúc. Bây giờ tôi xin được phép trao ông chìa khóa nhà và xin ông vui lòng ký tên vào hồ sơ này.”

Anh hoàn tất mọi thủ tục hành chánh và kiếu từ ra về, không hỏi han gì thêm. Niềm xúc cảm nhè nhẹ dâng lên và anh cảm nhận được nỗi rung động dằn vặt  y như một tuần trước đó, khi anh nhận được thư báo của văn phòng chưởng khế. Thư đến bất ngờ. Cùng lúc là những hoài niệm tưởng đã yên lắng từ lâu. Càng suy ngẫm lâu về những chuyện cũ, càng nhiều nghi vấn trỗi dậy trong anh. Những nghi vấn không câu trả lời. Anh cũng không rõ, ai sẽ là người có thể giải thích giùm anh những thắc mắc ấy. Cho tới khi vào ngồi trong xe và lấy lại bình tĩnh, anh tìm cách nhớ lại.

Thuở ấy anh thường xuyên tới nhà dì Ulla vào những dịp nghỉ Thu. Dì sống cô quạnh trong một ngôi nhà nhỏ tại làng quê kế cận nhà cha mẹ anh. Anh thích tới thăm và ở lại nhà dì. Tại đó anh được dì chiều chuộng và đáp ứng mọi trò vui, mà ở nhà anh không được phép làm. Dì nấu ăn ngon và nướng bánh khéo. Dì chơi đùa cùng anh. Mỗi tối anh được phép xem truyền hình lâu hơn và không bị buộc phải đi ngủ lúc 9 giờ. Thỉnh thoảng lại có mặt Oliver, đứa bạn hàng xóm cùng tuổi. Và lần đầu tiên trong đời, anh đã trải qua nhiều trải nghiệm thú vị. Vào mùa Thu và cũng là mùa săn bắn. Với Oliver. Trên tháp canh trong rừng.

Anh mở cửa và lê bước vào nhà. Thận trọng và dè dặt như sợ khuấy động những món đồ vật đang chìm sâu trong giấc ngủ và phá vỡ thời quá vãng cùng hơi người lẫn mùi nấu ăn.

Thắm Nguyễn

Anh tìm lên phòng ngủ của anh thuở ấu thời ở tầng một. Anh không tin ở mắt mình. Cách bài trí căn phòng vẫn y nguyên như 40 năm trước. Mọi thứ đều sạch sẽ và gọn gàng. Như thể thời gian đã ngừng chuyển động. Như thể ẩn náu đâu đấy, lẩn khuất trong gian phòng này, linh hồn ấu thơ đã mất của anh vẫn trông đợi ngày anh trở lại. Anh ngồi xuống giường. Bàn tay anh lướt chậm lên lớp khăn bọc tấm chăn, mà anh hằng yêu thích, in hình con linh mã một sừng. Chăn, áo gối thơm tho như mới vừa giặt giũ. Gần như miễn nhiễm. Nhưng đựng đầy hương thơm những kỷ niệm thời thơ ấu và những hương liệu năm tháng hoa niên khó quên của anh. Chúng khơi dậy trong anh nỗi mê đắm hoan lạc và buộc anh cởi áo khoác. Rồi tháo giày. Sau đó trút bỏ quần áo. Anh ngồi bó gối như con rối sau màn trình diễn, và khép mắt lại. Anh bắt được thanh âm quá khứ văng vẳng. Tiếng gọi của mùa săn và cơn dục vọng bắn giết. Rõ mồn một. Như mới hôm qua. Anh có cảm tưởng như thể sắp sửa có người tới cạnh bên và đắp chăn cho anh. Người ấy sẽ cúi xuống, thì thầm chúc anh ngon giấc và khẽ đặt lên trán anh nụ hôn dịu dàng. Của dì Ulla. Và còn nữa. Một ve vuốt. Lên thân xác trai tơ. Không phải chỉ xuất phát từ hai bàn tay anh, mà của cả Oliver. Anh cảm nhận lại hơi thở bạn cháy bỏng lên thân anh trần truồng và vòng ôm ấm áp kích thích của đứa con trai. Anh nghe lại tiếng nấc nghẹn đè nén cơn khoái cảm vô bờ.

Xem thêm:   Con nhỏ khờ dễ sợ

Khoảnh khắc ấy, anh ngỡ mình nghe ra tiếng chân bước, như thể có ai đang đến cùng anh. Ai đó đang đứng trước cửa phòng, nhưng ngại ngần, không dám gõ. Ðỗi sau, tiếng chân người xa dần. Nỗi vắng lặng trở về cùng mùa Thu nhịp sống anh. Cùng lúc là mùa săn thủa thanh xuân.

Tháp canh nằm trong khoảng rừng trống bên hồ nước lau sậy um tùm. Từ tháp canh người ta có thể theo dõi mọi diễn biến chung quanh. Thời khắc trước khi mặt trời lặn là lúc thật sự sống động, khi lũ chim trời trở lại và tới đấy tìm nước uống. Vịt và ngỗng trời, gà rừng và chim trĩ tìm về từng bầy. Gần như cùng lúc. Ðể cử hành nghi lễ thường nhật. Chúng tắm táp, uống nước, cãi cọ và gây hấn nhau. Một tuồng hát thiên nhiên phát ra những thanh âm đầy kịch tính, một thứ tạp âm của hân hoan, bỡn cợt và tranh cãi. Thỉnh thoảng lại thấy lũ hươu nai đến tụ bầy.

“Lũ hươu thường có mặt ở đây vào mùa Thu”, chú của Oliver cất giọng kể, “mùa chúng rượn đực.”

“Rượn đực là gì vậy chú?”, anh thắc mắc.

“Mùa thú cáp đôi”, chú đáp cùng lúc ra dấu bằng tay, “lúc ấy những con hươu cái phát tín hiệu cho con đực bằng cách phát lên tiếng kêu, cho biết chúng đã sẵn sàng.”

“Chú không bắn giết chúng khi đó chứ?” Anh sững sờ nhìn ông.

“Làm gì có! Cháu đừng lo! Chú chỉ để ý tới lũ chim trời thôi!”, ông chú cười. “Chú thấy chuyện săn bắn những mục tiêu chuyển động thú vị hơn nhiều. Tin chú đi, đó là cả một thử thách, một nghệ thuật, một cách thỏa mãn thân xác”, ông nói thêm bằng giọng say mê.

“Bây giờ hai đứa bây khe khẽ thôi”, ông chú dặn dò. “Nhớ giữ im lặng tuyệt đối khi theo dõi, hiểu không? Nếu gặp may, chúng ta sẽ chứng kiến cảnh hươu cáp độ nhau!”

Cả ba người đều mặc áo khoác cảnh cáo và mang ủng nhựa màu vàng chói. Chú của Oliver dẫn theo con chó săn giống Labrador Retriever lông đen tuyền, vai quàng súng trường hai nòng, đi trước mở lối. Lúc cả ba đến tháp canh, nắng ngày đã ngả vàng sẫm.

Anh và Oliver leo lên tháp canh và theo dõi sự việc qua ô trống hẹp, trong khi ông chú và con chó săn đứng rình dưới khoảnh rừng thưa. Bóng chiều nghiêng dài. Những tia mặt trời len lách qua vòm cây và trải thảm loang lổ vàng mật ong lên đất. Màu trời những khoảng trống trông như nhuốm máu tươi. Không gian thinh lặng. Lâu lâu lại vang lên tiếng xào xạc của gió lay động cành lá.

Thoạt tiên khẽ thôi. Âm vang léo réo. Oliver thúc nhẹ khuỷu tay vào người anh. Bên dưới, chú của cậu giơ tay ra dấu đã sẵn sàng. Tiếp theo là tiếng động khô khốc. Cây súng săn đã được nạp, lẩy nòng và sẵn sàng nã đạn.

Thanh âm léo réo dần dần rõ ràng và vang dậy. Chỉ một thoáng sau, dội lên chuỗi tiếng động inh ỏi. Ðinh tai. Hoan hỉ. Hỗn loạn. Trên không, anh thấy từng đàn chim trời kéo về sau một ngày tìm mồi và ngơi nghỉ chốc lát bên hồ lau sậy.

Xem thêm:   Thư cho Thao

Bằng nhịp tim đập vội, anh ngắm nhìn bầy chim đáp xuống hồ nước. Con này tới con khác. Như mũi tên bắn nước tung tóe. Trong khắc giây ấy, vang lên tiếng súng đầu tiên. Một tiếng khác nối theo. Lũ chim túa bay tứ tán. Chúng tung cánh chới với, hối hả vút lên, kéo theo từng vệt nước lê thê, nhuốm nắng chiều hoen máu vỡ vụn sáng lóe. Trong khung cảnh hoảng loạn của chuỗi cánh đập vẩy nước tung tóe và tràng tiếng kêu hãi hùng của lũ chim trời, chú của Oliver nạp đạn cây súng săn, nhanh nhẹn và thành thạo, không ngớt và lia nòng, mắt đăm đăm đỉnh nhắm, người xoay theo hướng chim bay. Tràng tiếng súng lại vang lên. Lắp đạn. Lên nòng. Và bóp cò. Vài con trúng đạn, rớt xuống thẳng băng như những đồ vật rơi rụng. Ông chú dường như lâm cơn lạc thú. Ông lẩy cò cho tới khi không còn bóng chim nào trên mái trời đỏ bầm.

Trong khoảnh khắc ấy anh sực nhận ra, anh còn thở. Mọi việc xảy đến khiến anh không những phấn khích, mà còn sợ hãi. Cùng lúc là nỗi gì lạ kỳ. Một thứ cảm xúc không thể định nghĩa, tựa như cơn chấn động thể xác. Anh quay nhìn Oliver. Hai người nhìn nhau đỗi lâu. Khi Oliver nhận biết anh đang xúc động, cậu vội vàng nắm lấy tay anh, siết lại. Anh cảm thấy tay mình run bật trong tay Oliver.

Anh nghe rõ tim mình đập rối và bên dưới, chú của Oliver đang lớn tiếng ra lệnh:

“Balu, chạy tìm! Mau!”

Con thú vẫy đuôi chạy vội. Trong phút chốc con thú bị màn sương chiều vừa dâng nuốt chửng.

Mọi người cùng lượt ngẩng mặt nhìn anh tò mò, lúc anh bước vào. Quán rượu làng đông khách và ồn ào. Không gian váng vất hơi người và mùi rượu. Anh tiến lại quầy, ngồi xuống và gọi một ly bia.

“Ông chủ có bán thức ăn không?”, anh hỏi người chủ quán có đôi má ửng đỏ.

“Chúng tôi có thịt bằm vò viên chiên và xúc xích luộc”, ông đáp thờ ơ, “và khoai tây trộn xốt sữa chua, nhà làm”.

“Cho tôi một cái xúc xích với nhiều mù tạt và một lát bánh mì”, anh gọi thức ăn và không để ý có người đang lại gần.

“Có phải bạn đó không, Jojo?”, người lạ cất giọng rụt rè.

Anh quay nhìn. Nụ cười tươi trên khuôn mặt hớn hở. Bộ râu 3 ngày lún phún.

“Ðúng rồi, …”, anh trả lời, tia mắt dọ hỏi.

“Bạn không nhận ra tôi sao?”

Anh ngắm nghía gương mặt người đàn ông đứng đối diện kỹ hơn. Anh ta có nhiều nét thân quen. Mái tóc bồng bềnh. Màu mắt hổ phách trong vắt. Khóe cười. Anh hồi tưởng vội vàng những gương mặt đã lướt qua đời sống anh.

“Oli… Oliver?”

Người đàn ông gật đầu cười, nụ cười ngượng ngập nhưng ấm áp thuở nào. Hai mắt Oliver rực lên. Sau giây khắc ngại ngần, hai người ôm chầm lấy nhau.

“Bao lâu rồi nhỉ?”, anh xúc động hỏi và bất chợt bối rối, khi nhận ra thân thể Oliver toát ra mùi hương khác. Nồng nàn hơn. Nam tính hơn. Như hương Tháng Mười. Như mùi lá khô chết. Thứ mùi hương khơi động khát vọng bắn giết.

“Tôi có thấy bạn về thăm chiều nay”, Oliver nói.

Anh lặng lẽ nhớ tới chiếc bóng đứng bên cửa sổ lúc bước ra xe.

Anh và Oliver trở lại tháp canh ven rừng nhiều lần sau đó. Không phải chỉ trong những hôm đẹp trời, mà ngay cả những lúc mưa dầm. Ở chơi cho tới khi trời sẩm tối và quang cảnh mờ khuất trong sương khói. Chỉ vậy thôi, như thể cả hai muốn nhai lại những trải nghiệm săn bắn sôi nổi trước đó. Và, do Oliver kích động, anh còn học được cách khám phá thân xác mình. Nhiều khi đôi bạn nán lại nơi đó cho tới khi hoàng hôn buông, chờ xem lũ chim trời bay về tổ.

Xem thêm:   Tự thú

Trong quang cảnh huy hoàng lúc chim muông trở về tổ, Oliver bày cho anh cách tự thỏa mãn thân xác bằng tay của chính anh. Và của cả Oliver. Trong chuỗi động tác kích dục này thường xuyên hiện ra trong dòng hồi tưởng anh hình ảnh lũ chim trúng đạn. Ðẫm sắc và rõ nét. Hòa cùng tràng tiếng kêu rối loạn và đau đớn. Như thể cái chết và lạc thú thân xác là hai cảm nghiệm không thể tách rời.

Kể từ hôm bầy chim bị chú của Oliver săn đuổi và bắn hạ, chúng tránh xa hồ nước lau sậy và đi tìm nơi khác. Một khoảng thời gian dài, anh thường xuyên nhung nhớ quang cảnh săn bắn chứng kiến lúc ban đầu. Anh có cảm tưởng như chú của Oliver hành xử không phải vì thích thú chuyện săn bắn mà vì tính sát thú.

Những mùa săn và trò chơi dục cảm giữa anh và Oliver cứ vậy tái diễn vào mỗi mùa Thu. Cho tới ngày anh cùng cha mẹ dọn về thành phố. Nơi đó anh tìm ra nơi trú ẩn cho những mùa giông bão của cảm xúc mình. Anh, như một con thiêu thân lóa mắt trước hào quang sân khấu rực rỡ, lao tìm những cuộc phiêu lưu dục lạc nơi phố thị nặc danh. Oliver chỉ còn là một cái tên như những tên gọi khác, là một gương ảnh vụn vỡ trong cuồng lưu của dòng sông hồi ức anh.

“Bạn có thấy hạnh phúc và hài lòng với đời sống mình?”, Oliver hỏi anh trên đường về nhà.

“Chuyện ấy… khó… trả lời quá!”, anh ngập ngừng. “Ðể mình thử giải thích xem sao! Có vài sự việc xảy tới buộc mình phải chấp nhận. Hạnh phúc không à? Ðôi lúc thôi. Còn bạn?”

“Mình đã kết hôn, tìm được việc làm yêu thích, và những bổn phận gia đình”, Oliver đáp nhanh như thể tự thú. “Vậy thôi.”

“Còn tôi không có ý định lập gia đình”.

“Tại sao không?”

“Tôi nghĩ là…”, anh ngưng ngang, lát sau mới tiếp lời. “Tôi nghĩ mình không thích hợp”.

Oliver dừng chân, đưa mắt nhìn anh dọ dẫm. Ðèn đường ném ánh sáng vàng úa lên gương mặt anh trải đời dày dạn. Oliver dọ dẫm tìm lại những dấu vết thân quen của những mùa Thu và mùa săn thuở nào. Không còn thấy.

“Tháp canh ven rừng của chúng ta không còn đó nữa”, Oliver kể. “Hồ nước đã khô cạn từ lâu. Cánh rừng đã trở thành vùng đất thiên nhiên cần được bảo vệ. Chuyện săn bắn bị cấm. Qua rồi những mùa săn. Ðôi khi mình lại tự hỏi, ngay cả mùa Thu không biết sẽ còn tồn tại tới bao giờ? Vậy thì hãy hưởng thụ đi. Chúng ta hãy thụ hưởng mùa Thu. Khi nào nó còn đó. Giống như người ta thường ví von, mỗi người chỉ có một cuộc đời để sống”, Oliver ngưng lời, nhếch môi cười.

Anh có nghe ra trong giọng nói Oliver nỗi khắc khoải và khao khát điều gì đã mất. Anh không có điều gì để thêm thắt. Mọi việc dường như chẳng còn nghĩa lý nào nữa. Ðể than vãn. Ðể buộc tội. Ðể biện minh.

Tới nhà, cả hai siết lấy nhau trước khi chia tay. Chặt. Say đắm. Trong bóng tối đồng lõa của đêm, Oliver lướt tìm môi anh.

“Mình vào nhà với bạn một lát được không?”, Oliver cất giọng hụt hơi.

Anh đưa mắt thoáng nhìn khung cửa sổ ban chiều lấp ló bóng dáng Oliver đứng sau rèm. Ðèn còn thắp sáng.

“Mình mệt”, anh nói và nới lỏng vòng tay. “Mình còn nán lại đây vài hôm để lo việc bán nhà. Có lẽ chúng mình sẽ còn gặp nhau. Chúc bạn một đêm an giấc.”

NND

(29.05.2021)

(Dịch từ nguyên bản tiếng Đức “Jagdzeit”, cùng tác giả)