CHUYÊN ĐỀ DUYÊN ANH – KỲ 5
Huỳnh Phan Anh
Riêng đối với bản thân tác giả, dường như cuốn Hoa Thiên Lý cũng đã đánh dấu một kỷ niệm, một chặng đường đáng ghi nhớ của ông. Căn cứ theo lời ông kể lại trong hồi ký nhan đề Nhà Báo đăng trên tuần báo Tuổi Ngọc bắt đầu từ số 21, cuốn sách ra đời vào giai đoạn đầy khốn đốn và nghịch cảnh của tác giả vào khoảng trước 1 tháng 11-1963.
“Vào giai đoạn buồn thảm này, tôi cho xuất bản tập truyện Hoa Thiên Lý bằng tiền của nàng bạn Đặng Xuân Côn. Hoa Thiên Lý mang tên nhà xuất bản Giao Điểm của ông Trần Phong Giao. Có lẽ nó tồi quá, nên sau này, trong mục lục sách đã xuất bản của Giao Điềm, ông Trần Phong Giao không thèm nhắc nhở, ông loại nó ra. Tôi nhớ chuyện này thật kỹ.”(Duyên Anh, Tuổi Ngọc số 21)
Ông nhớ chuyện này thật kỹ. Cũng như ông đã nhớ thật kỹ từng chi tiết liên quan tới cuốn sách đầu tay, tới từng cái truyện ngắn được gom lại trong đó. Hình ảnh của Hoa Thiên Lý không những còn in sâu trong kỷ niệm của ông, mà còn in sâu trong các tác phẩm sau này của ông. Tôi không ngần ngại phát biểu rằng hầu hết tác phẩm Duyên Anh đã viết cho tới bây giờ đã được mở ra từ Hoa Thiên Lý, đã được báo hiệu và chuẩn bị từ đó. Đúng như Duyên Anh đã nói, cuốn sách đó có thể yếu kém.“Rồi” đối với con mắt thưởng ngoạn khách quan, nhưng nó chính là cái chìa khóa của chính sự nghiệp ông.
Hoa Thiên Lý là tập truyện gồm 10 truyện ngắn, dàn trải trên 213 trang sách, theo bản in (tái bản năm 1970). Đó là những truyện ngắn đầu tiên của tác giả, có tên sau đây: Con Sáo của Em Tôi, Trên Sông Tình Thương, Em, Trẻ Thơ và Bụt, Nỗi Buồn của Tuổi Trẻ, Biên Giới Người Có Tội, Chiếc Vòng Tay của Một Người, Hoa Thiên Lý, Khúc Rẽ Cuộc Đời. Trong số những truyện này phải kể Hoa Thiên Lý là truyện ngắn đầu tiên theo lời của ông, đã được sáng tác trong những ngày đen tối nhất:
“Sống buồn thảm như thế, tôi đâm ra nhớ nhà kinh khủng. Nhớ nhà và thương tiếc tuổi thơ của mình. Trước hết, tôi nhớ mẹ tôi. Vào một đêm mưa mù mịt chân cầu Tân Thuận, không ngủ được vì mái nhà dột tứ tung, tôi đã thức suốt đêm hí hoáy viết truyện ngắn đầu tay Hoa Thiên Lý” (Duyên Anh, Tuổi Ngọc số 22)
Có lẽ không phải tình cờ mà tập truyện ngắn đầu tay lại mang tên Hoa Thiên Lý. Nếu tập Hoa Thiên Lý là điển hình của toàn thể tác phẩm Duyên Anh thì truyện Hoa Thiên Lý đã “nhớ nhà và thương tiếc tuổi thơ mình” ra sao qua lời tự thuật dài non hai mươi trang sách.
“Mẹ tôi yêu hoa thiên lý như yêu chồng con. Chả biết màu xanh dìu dịu của lá và hương thơm nhẹ nhàng của hoa thiết tha là bao mà mẹ tôi âu yếm nó thế.”
Lời tự thuật mở đầu bằng một hình ảnh, hay đúng hơn là niềm bí ẩn của một hình ảnh. Niềm bí ẩn của giàn hoa thiên lý trong tuổi thơ tác giả, đó cũng là niềm bí ẩn của người mẹ thân yêu mà tác giả muốn gợi lại trên những dòng hồi tưởng của mình. Niềm bí ẩn đó đơn sơ, nên thơ nhưng cũng không kém phần kỳ diệu, như bất luận một niềm bí ẩn nào của tuổi nhỏ. Gọi là bí ẩn nhưng thật ra đó chỉ là bóng dáng mờ ảo của quá khứ, của kỷ niệm trong mỗi lần sống lại, tìm về với tất cả những rung động bàng hoàng.
Truyện kể lại những kỷ niệm về người mẹ với tâm hồn bao dung hiền dịu đã nuôi dưỡng tâm hồn của tác giả trong suốt một thời thơ ấu. Truyện viết về người mẹ hay đúng ra là viết gửi về một tâm hồn mẹ đã vắng bóng, khuất xa. Ngôn ngữ, lời kể, giọng kể cơ hồi buông thả theo dòng hồi tưởng miên man không còn trí tuệ để kiểm soát, trí tuệ đã nhường chỗ cho quá khứ được mặc tình lên tiếng. Viết điều này cũng có nghĩa là nhớ lại, làm sống lại một thời đã mất, tức là tạo cơ hội cho một thời đã mất giờ đây sống lại trở về:
“Mẹ dạy anh em tôi học. Tôi lớn dần trong sự chìu chuộng, trong sự bình thản mơ màng của mẹ tôi. Tâm hồn tôi đã ướp chung với hoa bưởi, hoa nhài, hoa lý.”
Tác giả đã lớn lên dưới cái nhìn hiền hòa âu yếm “như tiếng ru muôn đời” của người mẹ, lớn lên và tiêm nhiễm bởi chính màu sắc tâm hồn của người mẹ:
“…Mỗi trưa, mẹ hay dắt tôi ra hóng gió ở dưới giàn hoa. Mẹ mang chiếu ra trải. Mẹ ngồi nghĩ ngợi xa xôi. Tôi ngồi gối đầu vào lòng mẹ mơ màng nghe tiếng sáo diều vi vút, tiếng võng đưa kẽo kẹt, tiếng ru buồn thấm thía hay tiếng chim cu gáy xa xa vọng lại. Đôi khi mẹ kể chuyện gì mà tôi không hiểu được, nhưng chắc lòng mẹ rộn ràng lắm vì thấy mẹ mỉm cười bâng quơ. Tôi thường ngủ thiếp đi trong hơi thở êm đềm ấy.”
Tâm hồn người mẹ như cái bóng thân yêu ngày một in sâu vào tâm hồn tác giả với những nét đậm đà, in sâu vào biến đổi tâm hồn tác giả mà chính tác giả cũng không nhìn thấy rõ:
“Đến bây giờ, tôi vẫn chưa hiểu tại sao ngày bé nhỏ tôi ham thích những cái gì mềm mại, dễ thương, im lặng như giọt mồ hôi chảy đều trên lưng người thợ hay hơi thở đều đều của mẹ tôi”
Phải chăng cũng từ mỗi ảnh hưởng lặng lẽ âm thầm đó, tác giả đã đi tới việc chia sẻ với người mẹ về một sở thích gần như khó hiểu, vô nghĩa đối với chính mình. Tác giả không còn cho “cây ổi trĩu nặng quả chín (…) thú vị hơn ngàn hoa thiên lý của mẹ”. Trái lại ông đã bắt đầu, không biết từ bao giờ, thấy “thích ngàn hoa thiên lý ở quê ngoại”. Tác giả yêu hoa thiên lý như người mẹ suốt đời vẫn yêu và quý trọng nó như một kỷ vật quý báu nhất đời. Tình yêu hoa thiên lý gắn liền với tình yêu mẹ. Hoa thiên lý là hình ảnh của người mẹ. Tác giả có thể chưa đủ trí khôn để thấu hiểu những nỗi niềm, những tâm sự thầm kín của người mẹ vẫn hằng ấp ủ trong màu hoa thiên lý đơn sơ. Nhưng chính bên giàn hoa thiên lý trong hơi thở nồng ấm của mẹ, tác giả đã được nghe những mẫu chuyện quê hương êm đềm nhất.
“Đắm chìm trong niềm im lặng muôn đời của thôn ổ, tiếng mẹ tôi tha thiết rót vào tai tôi thay vì tiếng ru êm ái ngày xưa làm cho lòng tôi càng ngày càng mở rộng, mắt tôi càng ngày càng thắm sắc mộng mơ. Tâm hồn tôi dào dạt tình cảm, cái gì cũng gợi tôi say đắm, từ chiếc áo nâu thôn ổ đến manh áo nâu ố màu bùn, từ cái cầu cao chênh vênh đến túp lều tranh xơ xác.”
Và cũng chính bên giàn hoa thiên lý, tâm hồn thơ ngây của tác giả đã đón nhận những bài học đầu tiên về tình tự dân tộc cũng như về tình người. Những mẫu chuyện đó phải đẹp, càng đẹp hơn khi chúng được thốt lên từ giọng kể chan hòa thương yêu của mẹ. Nhưng đẹp nhất có lẽ là câu chuyện của trọn vẹn một đời người mà tác giả phải đợi tới tuổi lớn khôn mới được nghe kể lại. Câu chuyện thật của giàn hoa thiên lý. Câu chuyện thương tâm của một thời con gái, đang lứa tuổi yêu đương nhưng vướng phải cái bệnh lao gia truyền, đành phải khép chặt lòng mình trong cô độc, giữa lúc:
“Pháo cưới thi nhau nổ nát tan lòng mẹ. Màu áo đỏ, áo xanh bỗng nhiên ngả màu tang tóc như muốn liệm chung cuộc đời người con gái chưa đầy hai mươi mùa xuân.”
để rồi:
“Chiều chiều mẹ đứng ngắm mây trời đổi sắc dưới giàn thiên lý ngoài ngõ đợi ngày yên nghỉ dưới mồ.”
Nhưng đó cũng là câu chuyện của một linh hồn biệt xứ một hôm bỗng dừng lại bên giàn hoa thiên lý để rồi không bao giờ muốn cất bước ra đi, quyết sống bên người con gái đang chôn vùi tuổi xuân dưới bóng mát của giàn hoa:
“Mẹ tôi cảm động chết ngất trong đôi tay người yêu. Rồi cha tôi lo chữa chạy, rồi lòng mẹ nhóm lên ánh lửa tin yêu. Mẹ tôi lành mạnh nhờ thuốc thang nhưng phần lớn là nhờ lòng thương yêu của cha tôi.”
Câu chuyện Hoa Thiên Lý trở thành câu chuyện của lòng thương yêu, trong mọi giới hạn của nó, mai đây trở thành một di sản tinh thần bất diệt trong tâm hồn tác giả, kẻ tự nguyện, trên những bước đường dun ruổi của đời mình:
“…Đi tìm thương yêu trong màu hoa thiên lý, đi tìm những bà mẹ biết kể chuyện tâm tình, đi tìm cô bé thả mắt trong mơ dưới giàn cây.”
Thương yêu, tâm tình, mơ mộng, hồi tưởng… đó là những ý niệm nền móng của tác phẩm Duyên Anh thể hiện đầy đủ ngay trong sáng tác đầu tay này. Nói khác đi, con đường của Duyên Anh, của tác phẩm Duyên Anh đã được vạch ra ngay từ truyện ngắn Hoa Thiên Lý.
Người mẹ đóng một vai trò nổi bật trong truyện, là nhân vật của truyện, là đối tượng tác giả muốn nói. Điều này hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh nội tâm của tác giả trong lúc viết nên câu chuyện: “trước hết tôi nhớ mẹ tôi”. Câu chuyện lại được kể theo ngôi thứ nhất.
Vậy thì một chút suy diễn thông thường cho phép người đọc tin một phần nào rằng câu chuyện tác giả viết nên chính là câu chuyện của tác giả và nhân vật có thật. Riêng tôi, tôi vẫn muốn nghĩ rằng đó là nhân vật có thật dù cho thực tại của nhân vật đó hẳn phải được biến đổi “tiểu thuyết hóa” đi nhiều. Tại sao có ý nghĩ đó? Bởi đọc Hoa Thiên Lý, tôi tìm thấy ở đó, một mấu chốt, một tầm quan trọng vượt khỏi chính Hoa Thiên Lý. Nó không chỉ là một truyện ngắn như bao nhiêu truyện ngắn khác của tác giả, nó chính là cội nguồn của những tác phẩm ký tên Duyên Anh sau này. Nó là lời giải thích vững chắc nhất, có thẩm quyền nhất của Duyên Anh về Duyên Anh. Tôi vẫn không rời bỏ được quan niệm cho rằng trong mỗi tác phẩm đã bao gồm sẵn một cái nhìn hay một sự chú giải về chính tác phẩm đó. Và đọc (cũng như phê bình) điều này cũng có nghĩa tìm đến cái nhìn hay cái ngôn ngữ ẩn giấu đó của tác phẩm hơn là tìm đến chính tác phẩm trong những dáng vẻ bề ngoài của nó, trong ý nghĩa này nhân vật “mẹ tôi” trong Hoa Thiên Lý còn là một cái gì khác hơn là một nhân vật (như người ta vẫn gọi).
Cho nên, tôi không muốn xem người mẹ trong Hoa Thiên Lý là một nhân vật truyện hay nhân vật tiểu thuyết. Bởi vì trong trường hợp này, chính nhân vật tiểu thuyết đã sáng tạo nên nhà văn, quyết định con đường nhà văn đi, quyết định linh hồn của tác phẩm.
–oOo–
Có thể nói rằng với truyện ngắn đầu tay Hoa Thiên Lý, Duyên Anh đã tìm kiếm cho mình một đường lối sáng tác với những chủ đề nền tảng, ông không ngớt trở về và đào sâu thêm trong những cuốn sách tiếp theo. Ngoài ra, Hoa Thiên Lý còn báo hiệu một lối viết, một hình thức phô diễn mà Duyên Anh vẫn không ngớt trung thành.
Nếu gọi Duyên Anh là người viết văn của những rung động tình cảm (mơ mộng, nhớ nhung), ông đã biết thể hiện tình ý của mình bằng một ngôn ngữ thích hợp nhất. Đó là thứ ngôn ngữ nghiêng nặng về hình ảnh và hiện tượng không ngoài mục đích khêu gợi và kích thích cảm xúc ở người đọc. Ta chỉ cần đọc một đoạn văn rất điển hình của Duyên Anh sau đây để thấy rõ Duyên Anh đã thích nghi hình thức diễn đạt vào nội dung cần diễn đạt như thế nào:
“Khi mắt mẹ phảng phất khói hương mơ mộng thì lại là lúc phải khóc nhiều vì cô độc đau thương. Pháo cưới thi nhau nổ nát tan lòng mẹ. Màu áo đỏ, áo xanh bỗng nhiên ngả màu tang tóc như muốn liệm chung cuộc đời người con gái chưa đầy hai mươi mùa xuân. Những con bươm bướm đa tình chẳng chịu ghé hoa vườn Thuốc độc nên mẹ già cỗi và gần như xa hẳn nhân gian.”
Ta sẽ còn nhiều dịp trở lại vấn đề này khi đi sâu vào tác phẩm Duyên Anh. Ở đây tôi chỉ muốn nhận diện vóc dáng cũng như vị trí và tầm quan trọng của một truyện ngắn đầu tay trong toàn bộ tác phẩm. Đó cũng là lý do khiến ta dừng lại có hơi lâu ở truyện ngắn Hoa Thiên Lý. Những điều nói ở trên có lẽ cũng tạm đủ để ta còn tiếp tục thăm hỏi phần còn lại của tập truyện đầu tay.
Câu chuyện Hoa Thiên Lý đã được kể bằng hồi tưởng. Đối với Duyên Anh, hồi tưởng về một thời tuổi nhỏ đã mất. Tuổi nhỏ đã đến trong truyện ngắn đầu tay của Duyên Anh. Đến để ở lại và không bao giờ rời bỏ ngòi bút Duyên Anh trong những sáng tác kế tiếp, trong suốt tập truyện còn lại. Chính ở đây, người ta được phép nói rằng bước đầu tiên của Duyên Anh cũng là bước định đoạt.
Mỗi một truyện ngắn trong tập Hoa Thiên Lý là một chân trời nho nhỏ của lứa tuổi thơ ngây đang lớn lên, đang bay nhảy, đang chuyện trò. Và người đọc có cảm tưởng tác giả chỉ thật sự rời bỏ những nhân vật của mình, những linh hồn bé nhỏ đó ở những bước chân đầu tiên của họ băng qua ngưỡng cửa đời sống, với những ước vọng đầu tiên và với những tan vỡ đầu tiên của họ: tình yêu, sự nghiệp.
Dù viết về tuổi thơ như một đối tượng bên ngoài (Trẻ Thơ và Bụt, Khúc Rẽ Cuộc Đời) hay một đối tượng bên trong và đồng hóa với chính mình (Con Sáo của Em Tôi, Em…) ngòi bút của Duyên Anh vẫn không thay đổi. Vẫn một cái nhìn chung thủy, đơn nhất về tuổi thơ. Nói cách khác, vẫn là một hình ảnh tuổi thơ với những màu sắc tâm hồn cùng những thảm kịch đã trở nên quen thuộc dưới ngòi bút tác giả.
Khúc Rẽ Cuộc Đời kể lại câu chuyện những con người đánh mất tuổi thơ trong khói lửa của chiến tranh và cách mạng. Tuổi thơ gợi lên, vẽ ra trong truyện chỉ là một số hình ảnh và kỷ niệm tươi thắm còn lại, sáng rực trong tâm hồn của những kẻ đang, hay đã đi qua “Khúc Rẽ Cuộc Đời”. Đó là câu chuyện xung đột giữa Mộng và Thực, giữa những ước mơ sáng láng của tuổi nhỏ và những trò chơi khốc liệt của định mệnh, của chính cuộc đời. Hai người bạn – Khoa và Vĩnh – kẻ mong thành văn sĩ, kẻ ước được là người viết sử, nhưng:“Chao ơi! Trang đầu lịch sử của đời Vĩnh đã ghi chép những dòng máu lệ tủi nhục.”

Huỳnh Phan Anh
và Khoa, với “trời cao trên đầu”, với “vực thẳm dưới chân” liệu Khoa có thấy được một chân trời nào trên những bước đường ruổi dun mù mịt. Hay ước mơ kia chỉ còn là một hình ảnh đẹp ngày một vùi lấp trong những cơn phong ba của cuộc sống. Cũng như tất cả, mai đây chỉ còn là kỷ niệm ngày một đè nặng lên tâm thức của kẻ bị đuổi ra khỏi thiên đường thơ ấu:
“Khoa có bao nhiêu kỷ niệm gửi trong mắt chị Hiền, trong nụ cười Vĩnh, Bảo. Kỷ niệm tha thiết in hình vào miếng nắng, vào hàng cây, vào viên gạch huyện đường. Trọn đời, Khoa sẽ nhớ những buổi câu cá dưới gốc cây si nghe chị Hiền kể chuyện ma. Khoa sẽ nhớ bánh tráng Minh Giảng mỗi bận chị Hiền qua đấy mua về. Khoa cũng không thể nào quên được manh áo len tím chị Hiền đan tặng nhân mùa lạnh, và nhất là tình thương mến chị Hiền trao Khoa. Người mẹ mớm cơm cho con mau lớn như chị Hiền mớm tình cảm cho Khoa biết mơ mộng. Khoa mong ước sau này Khoa bước xuống cuộc đời gặp nhiều chị Hiền… Khoa cầu nguyện đất trời cứ thế này mãi mãi.”
Chị Hiền, cũng như bao tâm hồn bao dung, không mãi mãi như thế.
Và đất trời của tuổi nhỏ cũng không mãi mãi như thế.
Không còn gì ngoài những cơn ác mộng của cuộc sống.
“Phải chứng kiến lưỡi kiếm đâm từ ngực xuyên qua lưng ba Vĩnh. Phải chứng kiến ba Vĩnh giẫy giụa trên vũng máu. Phải thấy xác chị Hiền trần truồng. Phải thấy mắt chị trợn trừng uất hận mới hiểu cách mạng và chiến tranh.”
Người ta gặp lại nhau sau bao nhiêu năm ngăn cách, đổi dời. Người ta bàng hoàng biết bao nhiêu. Tuổi thơ đã bị đốt cháy tan hoang. Và hiện tại thì giăng mắc mây mù. Nói gì? Liệu người ta còn biết nói với nhau những gì ngoài những “chuyện ngày xưa” để được sống lại một lần nữa trong khung cảnh thần thoại của tuổi nhỏ mơ mộng, để được nhìn lại một lần nữa những hình ảnh tuyệt vời rơi rớt từ quá khứ.
Cũng như nhân vật xưng “tôi” trong Hoa Thiên Lý, người con trai tên Khoa trong Khúc Rẽ Cuộc Đời chính là hình ảnh của một kẻ đi tìm lại quá khứ, một kẻ mang căn bệnh quá khứ, vận hành của câu chuyện là vận hành của một tâm hồn lội ngược giòng thời gian, tìm đến chỗ hẹn hò cùng quá khứ và kỷ niệm, trước khi dấn thân vào dòng đời rộng lớn.
(còn tiếp)
HPA (Sàigòn, 1972)
Trần Vũ đánh máy lại tháng 4-2024, từ khảo luận Duyên Anh, Tuổi Trẻ, Mộng và Thực của Huỳnh Phan Anh in tại Sàigòn năm 1972, Nxb Vàng Son, Chương III.