Chia tay với anh Q., và C. hai người đã cùng đi một đoạn đường với gia đình Dế Mèn từ Saigon ra đến Nha Trang. Hôm nay phe ta đi máy bay ra Hà Nội, anh Q. và C. lái xe trở lại Saigon. Thật cảm ơn hai anh đã săn sóc mấy chị em Dế Mèn chu đáo.

3 kỳ – kỳ 1

Ngày Mùng Một, đầu năm: Hà Nội

Chuyến bay Nha Trang – Hà Nội chỉ 1 giờ 30 phút ngắn ngủi, vào thành phố trời đã trưa. Mấy chị em rủ nhau ra phố Cổ nhìn cảnh nhìn người.  Những con đường hẹp lúc nào cũng tấp nập người qua lại, góc phố với những cây cổ thụ rễ mọc trồi lên lề đường. Không biết những năm 50 của thế kỷ trước mặt mũi Hà Nội ra sao, chứ bây giờ thì chẳng thơ mộng chút nào. Ngày trước khi bố mẹ Dế Mèn nói về thành phố này, mắt hai cụ thường mơ màng nhớ tiếc… Ở Hà Nội, những con đường được gọi là “phố”, phố Mã Mây, phố Quán Sứ, phố Tông Đản… (không hiểu sao lại là “Tông Đản”, Dế Mèn dò sử Việt chỉ thấy “Tôn Đản” hẳn phạm húy chi đó?). Dế Mèn dừng chân mua mấy cái bánh gai, lúc trả tiền mới nhớ là H. đã xách giùm cái túi đeo vai. Dế Mèn dặn người bán hàng chờ lấy tiền, vừa quay lưng đã nghe tiếng bà ta đuổi theo lồng lộng… đồ thối thây dầy da, đàn bà con gái gì mà ngu quá không biết giữ tiền… Dế Mèn còn bàng hoàng chưa hiểu tại sao người đàn bà này lại chua ngoa như thế đã thấy mặt H. đỏ gay, hai bàn tay nó nắm chặt. Dế Mèn dỗ em thôi bỏ đi H.

Mấy lần ghé thăm Hà Nội, không ‘thở’ nhịp thở thật thà của thành phố như lần này nên bây giờ Dế Mèn mới biết mùi Hà Nội thanh lịch. Những cái lễ phép xã giao bề ngoài của việc buôn bán ở khách sạn, ở những dịch vụ du lịch quả là một thứ vỏ bọc rất dày, một loại plastic che giấu kỹ lưỡng những phá sản tinh thần bên trong.

Từ phố Hàng Giầy, mấy chị em bước nặng nề ra Ô Quan Chưởng, một trong những cửa Ô duy nhất còn giữ được cái cổng.  Nơi đây quan chưởng cơ và quân binh đã giữ được cửa thành trong một trận chiến với quân đội Pháp hơn 300 năm trước. Những người qua lại trong thành phố đã dùng những bức tường này như một nơi để phóng uế, đi ngang Ô Quan Chưởng mùi nước tiểu nồng nặc. J. nhăn nhó, nó không thể nào hiểu được một di tích lịch sử như thế lại bị người thành phố mặc tình phóng uế, thật là một sự sỉ nhục!  J. cho rằng dân trí quá thấp kém nếu ta không học được bài học lịch sử sống còn của chính dân tộc mình… Buổi chiều Hà Nội xuống não nề, Dế Mèn nuốt mãi không trôi bữa ăn tối, hình như thức ăn cứ nghẹn mãi ở cổ.

Sau bữa ăn tối vội vàng, phe ta đón xe lửa đi Lào Cai. Chuyến tàu qua đêm có giường ngủ, có phòng ăn. Bàn ăn phủ khăn trắng và có cả một bình hoa hồng… Mấy chị em nhìn qua cửa sổ xem nhà cửa hai bên đường mãi đến một giờ sáng mới đi ngủ. Miền Bắc quả là quê nghèo, ra khỏi Hà Nội là mặt nạ “phồn vinh” rơi tuốt tuột, những người tụ tập ở góc phố hai bên đường tối mù không biết để làm gì vào nửa đêm về sáng?  Những túp lều, ngôi nhà rách mướp… vẫn còn nhiều nơi trên quê hương miền Bắc không có điện, và người dân sinh sống ở mức tối thiểu. Có phải vì vậy mà người ta khó chịu với kẻ khác? Nhất là những người “tốt áo” nhàn tản chung quanh?

Xem thêm:   Đôi mắt của Claude Monet

Tháng Giêng Sapa

Xuống ga Lào Cai vào buổi sớm tinh mơ, trời còn sương mù. Lào Cai (sách Địa Lý cũ viết là Lào Cay) cách biên giới Trung Hoa khoảng 15 phút lái xe. Chị em Dế Mèn nhờ người tài xế và người dẫn đường đưa ra nhìn biên giới, địa đầu của đất nước trước khi qua Sapa; họ có vẻ ngạc nhiên nhưng cũng chiều lòng khách du lịch [dở hơi?]. Đứng bên này biên giới nhìn qua, thấy tháp canh, mấy người lính gác lắc đầu không cho chụp hình chụp ảnh gì ráo, may quá họ không tịch thu cái máy hình của J.

Đi khoảng một tiếng rưỡi là đến Sapa, miền núi của thị trấn. Trên đường đi, những nghĩa trang quân đội dày kín mộ bia, người dẫn đường kể rằng năm 1979 khi quân đội Tàu tràn qua biên giới, Lào Cai là thị trấn đầu tiên và họ chiếm đóng nhiều tỉnh lỵ trong suốt 17 ngày, những tỉnh lỵ chỉ cách Hà Nội khoảng 130 cây số. Dế Mèn hỏi (tuy không biết chắc câu trả lời có thật hay không) về sự tổn thất của Việt Nam, người dẫn đường so vai bảo quân đội nhân dân mất mấy chục ngàn người! H. chồm người về phía trước để nghe cho rõ những câu nói sau đó… Quân ta rút về từ Lào và Cam Bốt để lấy lại lãnh thổ

Vào Sapa, trước đây là những con đường đất đỏ, nhờ kỹ nghệ du lịch nên đường phố đã tráng nhựa, nhưng đường núi quanh co nên xe cũng chỉ chạy khoảng 30-40 cây số một giờ. Những ngọn núi lẫn trong sương mờ ảo, cảm tạ trời đất, quê hương vẫn còn những nơi rất đẹp! Dọc đường, những người Hmong đi rẫy buổi sớm bắt đầu một ngày mới. Khách sạn có sân thượng, Dế Mèn mở cửa phòng, sương mù phủ quanh mát lạnh, ta như đang lơ lửng trong một đám khói!  Dãy núi Hoàng Liên Sơn hình như rất gần trước mặt, chỉ một cái với tay. J. la lên đẹp quá và chàng bấm luôn 20 tấm ảnh một lúc, kể cả khi Dế Mèn vươn vai ngáp dài!

Sau bữa ăn trưa, mấy chị em đi bộ quanh thị trấn, chỉ có vài con đường, và con đường nào cũng có khách sạn, nhà nghỉ, những dịch vụ du lịch. Những ngôi nhà xây vội vã, giành nhau từng mảnh trời xa. Chỉ vài năm nữa thị trấn này sẽ trở thành một “tourist trap” và những người miền núi nếu không chóng vánh trở thành những người dẫn đường, buôn bán hàng quán thì không biết họ sẽ phải chạy đi đâu? Những cô bé người HMong vẫn còn mặc váy thêu, đầu đội mũ, ống chân quấn vải, cổ tay đeo vòng leng keng… rất xinh xắn! Có hai cô bé khoảng 7-8 tuổi, cứ đi theo nắm tay áp má vào tay Dế Mèn không buông. Hình như những đứa trẻ này không được ẵm bồng nên chúng thèm được vuốt ve nâng niu. Dế Mèn bế một con bé lên, lập tức con bé kia nắm áo đòi ẵm. Dế Mèn ẵm không nổi một lúc hai đứa trẻ nên đành phải nắm tay mỗi đứa đi một bên.  H. bảo Dế Mèn mọc đuôi, cứ như thế tèng tèng đi quanh phố núi, hai đứa nhỏ không nói được tiếng Việt và Dế Mèn cũng không nói được tiếng HMong… Mãi đến lúc người dẫn đường trở lại đưa phe ta vào thăm buôn làng xa, 3 tiếng đi bộ, mấy đứa nhỏ mới rẽ qua đường khác, không biết chúng đi đâu.

Ngôi làng đầu tiên đi qua là làng Cat Cat, bên cạnh làng là ngọn thác cùng tên, người ta chế ra những cái chày giã gạo chạy bằng nước dẫn từ thác nước bìa làng.  Những mái tranh, con người sống chung với gà vịt và heo. Những đứa trẻ có áo không có quần bò lê la trên mặt đất.

Xem thêm:   "Bánh" là gì?

Gặp một cô bé địu đứa con ở trên lưng, cả mẹ lẫn con đều là hai đứa trẻ, mặt mũi buồn rầu như nhau. Dế Mèn hỏi thăm, con gái HMong lấy chồng khoảng 13 -14 tuổi và có con rất sớm, tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh trong vùng là 60/1000 (theo trạm y tế Sapa).

Buổi chiều trời Sapa rất lạnh, nhiệt độ xuống nhanh khi mặt trời vừa khuất sau núi, khoảng 30 độ Fahrenheit trong vòng 3 tiếng đồng hồ. Thực đơn của bữa ăn tối đã thấy thấp thoáng những món ăn ngoại quốc như “pumpkin soup”, có thể dịch tạm là canh bí đỏ (bí rợ) nhưng mùi vị hoàn toàn không có chút Việt Nam nào, và món khoai chiên cũng xuất hiện.  Ta có thể đoán rằng những người ngoại quốc đã đến đây khá nhiều và khá lâu, đủ để thay đổi một vài thói quen của người bản xứ.  Những dịch vụ và những người buôn bán đã khá đúng giờ, một thói quen Dế Mèn không thấy ở Hà Nội hay Saigon.

Về lại khách sạn, bây giờ Dế Mèn mới có dịp nhìn quanh căn phòng, có phòng khách nhỏ, cửa sổ nhìn ra hướng núi.  H. pha trà, mấy chị em ngồi xem lại hình ảnh chụp được trong mấy ngày qua.  J ngửa mặt nhìn lên trần nhà và nó la lên, sao những cái nẹp gỗ viền chân tường (molding) lại không giống nhau, mỗi góc một kiểu lộn xộn.  Phe ta nhìn quanh thêm một lúc nữa, phòng vệ sinh có một cái cửa sổ nhỏ (lỗ thông hơi?) khoảng 30 centi mét vuông gần trần nhà, mở ra … hành lang! Tối hôm đó Dế Mèn xài thử hộp xông hơi (steam chamber) trong phòng tắm, mèng ơi, nước lênh láng trên sàn nhà. Gọi khách sạn, họ bảo không sao cả, ấy là cách tháo ..nước!!!  Hèn chi mà trần nhà loang lổ những vết ố vàng, khách sạn mới xây chưa được một năm! J. chụp hình cái bàn cầu diêm dúa của khách sạn này, chàng bảo có những tiện nghi không thể mua được bởi vì người ta chưa có để bán.

Câu chuyện trên bàn ăn sáng xoay quanh dịch vụ du lịch, H. cho rằng ta chưa có khả năng cung cấp những dịch vụ xa xỉ để thu hút những món tiền du lịch lớn và Dế Mèn đồng ý với H. Rặng núi Hoàng Liên Sơn và thung lũng sương mù này nếu ở một thành phố nào đó bên Thụy Sĩ, phòng khách sạn ít nhất phải từ 500 Mỹ kim một tối, và đương nhiên những dịch vụ khác cũng đắt không kém. Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để “market” những dịch vụ xa xỉ (high-end travel) ấy mà không chế tạo một “ốc đảo” tách rời khỏi đời sống chung quanh như những khu du lịch Thái? Nhất là VN không có hạ tầng cơ sở (infrastructure) để nuôi dưỡng (support) những dịch vụ này; khách sạn chỉ là một trong nhiều tiện nghi khác, phương tiện chuyên chở, đường sá, quán ăn, quán rượu … Thôi thì ta nhắm mắt lại, họ đang thu tiền rất nhanh từ những người du lịch ba lô để xài lẹ, xài đỡ! Mấy hôm sau, Dế Mèn và hai người em đọc một bài báo, trong tờ Vietnam News của chính phủ xuất bản tại Nội, nói về kỹ nghệ du lịch.  Bài báo này viết về ý kiến của những người du lịch Việt Nam trong năm ấy, đại khái là tuổi trung bình 28, lợi tức hàng năm trung bình là “dưới 20 ngàn Mỹ kim” (“đọc” ra là Tây ba lô)… Khi đọc câu “13% số người du lịch nói họ sẽ trở lại thăm VN”, Dế Mèn bần thần chỉ cho J. và H. Như vậy, 87% những người đã đến đất nước này sẽ không trở lại; theo ngành thương mại, “return business” mà yếu thế này thì làm sao buôn bán lâu dài? Hay là “long-term growth” không phải là điều chính phủ VN cho là quan trọng?

Mặt trời ra khỏi màn sương mù, nắng sớm óng ả trên thung lũng, nhìn xuống bản xa, từ những mái rạ, những làn khói xám lơ lửng.  Cảnh vật đẹp như tranh vẽ, bình yên và lặng lẽ, nhưng đằng sau tấm tranh thiên nhiên ấy, đời sống vất vả của người miền núi mà Dế Mèn mới thấy tận mắt hôm qua…

Xem thêm:   Đôi mắt của Claude Monet

Theo giòng Suối Vàng, người dẫn đường đưa mấy chị em Dế Mèn leo núi, đi qua làng Lao Chải của người HMong và làng Tả Yan của người Zay. Người làng dùng củ nâu và lá rừng (Dế Mèn không biết tên) để lấy màu xanh lá cây và màu xanh dương (indigo).  Họ nhuộm những tấm vải thưa để may quần áo, túi xách, khăn treo tường … Những cô bé cặm cụi thêu những hình kỷ hà nhỏ để ráp vào những cái khăn. Dế Mèn mua một tấm khăn treo tường, màu xanh dương với những mảnh ghép màu trắng, màu đỏ thêu hình dạng chân cọp, chân gà lạ mắt. Chỉ ngừng lại mua mấy cái khăn mà mọc đuôi từ lúc đó, đám con nít đi theo rao bán những chiếc vòng sắt. J. chụp mấy tấm hình khi Dế Mèn ngồi nghỉ chân uống nước, bị đám con nít bao quanh, đứa lắc tay, đứa lay vai, đứa nắm quần… Cô bé nhỏ nhất tranh không lại mấy đứa lớn hơn bèn leo lên lòng, tay xoay cằm Dế Mèn về phía nó cho chắc ăn! Từ chối mãi không được, Dế Mèn mua vài thứ lặt vặt và một cái vòng cho mình, J. và H. tự nhiên cũng phải đeo vòng vì mấy cô bé cứ lôi kéo chỉ trỏ hai anh chàng này!  Về Mỹ nhìn ngắm mấy cái vòng sắt thấy lạ mắt vì những vết chạm tỉ mỉ trên miếng kim loại.

Con đường leo núi rất đẹp, trời nắng khô nên bớt lạnh. Từ sườn núi nhìn ra những thửa ruộng loáng nước, người làng trồng lúa trên những mảnh đất thoai thoải theo sườn núi, những mảnh đất có nhiều tầng. Con đường mòn có những khúc chỉ một người qua lọt, một bên là vách núi, bên kia là sườn núi cheo leo, Dế Mèn trèo đèo mà không dám nhìn xuống khe núi …

Trạm Y Tế của làng Tả Yan không có ai để hỏi thăm, Dế Mèn chụp mấy tấm ảnh cho TG và KC, hai người bạn đã tổ chức những chuyến “medical field trip” để khám bệnh miễn phí tại Ecuador.  Bây giờ mấy thôn làng ở quốc gia ấy đã có bệnh xá, có bác sĩ địa phương tài trợ bởi nhóm người “không tên”; mỗi tam cá nguyệt thay phiên nhau đến làm việc thiện nguyện ở những bệnh xá này.

Người dẫn đường chỉ cho Dế Mèn một ngôi nhà đang xây dở, bảo rằng một công ty du lịch tài trợ chương trình xây cất một trường học ở đây.  Dế Mèn và hai em gặp MT, người Úc, đang sống tại Hà Nội và uống “bia tươi” với anh ta trên đường phố Hà Nội vài hôm sau đó. Dế Mèn hỏi về ngôi trường và hỏi MT lý do nào khiến anh ta đến và ở lại nơi này …, một trong những lý do mà MT ở lại, và Dế Mèn băn khoăn mất ngủ …

(còn tiếp)