Vũ Bằng, tên thật là Vũ Đăng Bằng, là một nhà văn, nhà báo nổi tiếng. Ông sinh ngày 3 tháng 6 năm 1913 tại Hà Nội và lớn lên trong một gia đình Nho học, quê gốc ở đất Ngọc Cúc, huyện Lương Ngọc, nay là Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Vũ Bằng theo học Trường Albert Sarraut, tốt nghiệp Tú Tài Pháp.
Năm 1935, ông lập gia đình với bà Nguyễn Thị Quỳ, người Thuận Thành, Bắc Ninh. Cuối năm 1946, Vũ Bằng cùng gia đình tản cư ra vùng kháng chiến. Cuối năm 1948, trở về Hà Nội, lao vào nghiệp báo nghiệp văn. Năm 1954, ông vào Sài Gòn, để lại vợ và con trai ở Hà Nội (năm 1967, bà Quỳ qua đời). Ở Sài Gòn, ông lập gia đình với bà Phấn và có 6 người con. Ông mất ngày 07-4-1984.
Ngay khi còn nhỏ ông đã say mê viết văn, làm báo. Năm 16 tuổi ông đã có truyện đăng báo, và liền sau đó ông lao vào nghề văn, nghề báo với tất cả niềm say mê. Cha mẹ Vũ Bằng làm chủ một tiệm bán sách ở phố Hàng Gai, Hà Nội, nên ông được cưng chiều, không bị thiếu thốn, việc ông lao vào nghề viết không phải vì mưu sinh. Mặc cho người mẹ cản ngăn, muốn ông du học Pháp để làm bác sĩ. Vũ Bằng quyết chí theo nghiệp văn chương
Năm 17 tuổi (1931), ông xuất bản tác phẩm đầu tay Lọ Văn. Trong lãnh vực báo chí, ngay từ thập niên 30, 40, nghĩa là lúc ông còn rất trẻ, ông đã là chủ bút tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy, thư ký tòa soạn tờ Trung Bắc Chủ Nhật và cộng tác với nhiều tờ báo ở Hà Nội, Sài Gòn…
Sau năm 1954, Vũ Bằng di cư vào Nam như mọi người và tiếp tục viết văn, làm báo ở Sài Gòn. Ông làm việc tại Việt Tấn Xã và cộng tác với nhiều tờ báo. Đặc biệt, Vũ Bằng nổi tiếng với những cuốn tùy bút viết về món ăn: Miếng ngon Hà Nội (1960), Miếng lạ miền Nam (1969) và Thương Nhớ Mười Hai (1972). Về tiểu thuyết, Vũ Bằng có những cuốn tiêu biểu: Một mình trong đêm tối (1937), Truyện hai người (1940), Để cho chàng khỏi khổ (1941), Bèo nước (1944).

Vũ Bằng
Như vậy, cuộc đời của Vũ Bằng có hai phần: viết văn và viết báo. Về điểm này, nhà văn Nguyễn Đình Toàn nhận xét như sau: “Tầm quan trọng của hai vai trò nhà văn và nhà báo của ông ngang nhau.
“Ông đã lăn xả vào nghề làm báo, bỏ dở cả học hành, phụ cả ước mơ của thân mẫu những ước muốn ông trở thành một bác sĩ. Song chính nhờ những người như ông mà nền báo chí của chúng ta đã trưởng thành mau chóng.
“Hồi ký Bốn Mươi Năm Nói Láo của ông, tuy ông viết về mình, rõ hơn, viết về việïc theo đuổi cái nghiệp viết văn, làm báo của mình, nhưng qua tác phẩm này, người đọc có thể hình dung lại được một phần sinh hoạt báo chí Việt Nam hơn nửa thế kỷ trước. Cũng qua Vũ Bằng, người ta được biết nhiều chuyện vui buồn liên quan đến các nhà văn, nhà báo kỳ cựu của chúng ta một thời như: Nguyễn Văn Vĩnh, Hoàng Tích Chu, Tam Lang, Phùng Tất Đắc, Vũ Trọng Phụng, Đào Trinh Nhất, Tản Đà, Nam Hương, Nhượng Tống…”
Ngay từ những ngày đầu tiên ấy, ông đã ý thức rõ ràng về cái nghề làm báo của mình. Vũ Bằng viết:
«Bây giờ người ta gọi nghề làm báo là nghề nói láo ăn tiền. Kẻ viết bài này đã ngã vào cái nghề đó từ lâu, hôm nay ngồi giở lại cuốn sổ ký ức của mình, xin nhận ngay là mình làm nghề nói láo, Vì thế, tác giả lấy đầu đề tập ký ức này “Bốn Mươi Năm Nói Láo” chứ không dám đề là “Bốn Mươi Năm Làm Báo”. Vì tác giả nhận thấy rằng, nói láo là một cái vinh dự, làm nghề nói láo là một nghề đặc biệt ít ai dám đem ra khoe khoang. Thực vậy, đa số các nhà làm báo bây giờ, nghe thấy danh từ “làm báo nói láo ăn tiền” ngoài mặt thì có vẻ bất cần, nhưng trong thâm tâm thì hơi giận: tại sao làm một cái nghề cao quý như nghề báo, tại sao lãnh một cái sứ mạng nghiêm trọng là hướng dẫn dư luận, tại sao phục vụ một quyền lực lớn mạnh vào bậc thứ tư trên trái đất này mà có người dám bảo là nghề nói láo?”.
Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan đã nhận xét tổng quát về nghiệp văn của Vũ Bằng như sau:
“Tiểu thuyết của Vũ Bằng rất gần với tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan về lối tả cảnh và nhân vật, dù là họ ở vào cảnh nghèo khổ hay cảnh giàu sang, bao giờ Vũ Bằng cũng tả bằng ngọn bút dí dỏm, nhạo đời hơi đá hoạt kê một chút; còn về cảnh, ông chỉ tả sơ sơ; ông chú trọng cả vào hành vi ấy là động tác của cuốn tiểu thuyết và gây nên những cảnh riêng biệt cho nhân vật.”
Tô Hoài thì kể rằng:
“Những năm ấy Nam Cao đương ở với tôi trên Nghĩa Đô. Chúng tôi mải mê đọc Vũ Bằng… Nếu nhà nghiên cứu văn học nào lưu tâm đến những truyện ngắn Vũ Bằng thời kỳ ấy với truyện ngắn của Nam Cao và những truyện ngắn “Bụi ô tô”, “Một đêm sáng giăng suông”… của tôi trên báo Hà Nội Tân Văn có thể dễ dàng nhận thấy hai ngòi bút này hơi hướng Vũ Bằng. Chính chúng tôi vẫn thường thành tâm tự nhận xét ảnh hưởng ấy với anh ấy…”
Nhà văn Tạ Tỵ đã gọi Vũ Bằng là “Người trở về từ cõi đam mê” và ông đã viết:
“Vũ Bằng là một hiện tượng. Trong suốt dòng sông của cuộc đời có mặt, Vũ Bằng đã đánh đổi tất cả chỉ để xin lấy về phần mình hơi thở của nghệ thuật.
“Vũ Bằng thích sống một đời sống nhiều đam mê, dù là tội lỗi, hơn đạo đức. Theo anh, đã sống phải nếm đủ mùi đời mới thực là sống, còn bôn ba theo đuổi danh lợi rồi chết im lìm thì chỉ là sống một cách què cụt, thiếu sót… Tuy nói vậy, chứ Vũ Bằng còn ham làm việc lắm. Anh thường nói với tôi, anh ước mong viết…”
Tạ Tỵ thuật tiếp:
“Nhưng khi nhìn thẳng vào đời sống của Vũ Bằng dưới mái nhà nhỏ bé bên chân cầu Tân Thuận, tự nhiên trong lòng tôi thấy xót xa… Chính vì cần tiền nên cứ vào khoảng 3 giờ sáng, Vũ Bằng một mình một bóng vừa viết… vừa ngồi hứng từng chậu nước đổ vào bể chứa cho vợ nấu cơm và giặt giũ. Trời vừa hửng sáng, mặc quần áo đi làm, mang theo bản thảo. Buổi trưa đến cây xăng Cống Bà Xếp ngồi giữa hơi xăng và đống dầu mỡ mà viết, vì về nhà con còn nhỏ, la hét um sùm không viết nổi. Có lúc nhà in giục gấp quá, Vũ Bằng viết luôn tại nhà in, được trang nào đưa sắp chữ ngay trang ấy. Nhiều khi Vũ Bằng viết ở ghế đá công viên, nghĩa là chỗ nào và lúc nào anh cũng viết được, vì chữ nghĩa đã có sẵn, chờ dịp trút xuống…”
Võ Phiến nhận định về Vũ Bằng, đặc biệt chú ý tới văn tùy bút của ông.
“Vũ Bằng là một nhà văn tiền chiến, nhưng trước 1945 ông viết tiểu thuyết, sau này mới chuyển sang loại tùy bút với những cuốn: Miếng ngon Hà Nội, Món lạ miền Nam, Thương nhớ mười hai.
“Đề tài tùy bút Vũ Bằng là món ăn và quê hương. Quê hương mật thiết với món ăn, món ăn quấn quýt lấy quê hương. Vũ Bằng thương nhớ đất Bắc qua những món ăn, ông tò mò về thức ăn miền Nam cũng là vì món ngon quê hương (miền Nam chỉ có món lạ, miền Bắc mới có miếng ngon). Vũ Bằng là một đại nghệ sĩ trong khoa ẩm thực. Ông thấu đáo đến cái tinh túy của từng món ăn dân tộc bất luận sang hèn, từ món chả cá mà giới tư bản người Hoa hâm mộ đến nỗi đặt máy bay chuyển cấp tốc từ Hà Nội về Hương Cảng để làm tiệc, cho đến mấy củ khoai lang lùi trong bếp lửa gia đình. Ông thưởng thức miếng ngon đã rành, mà cái cách ông «luận» về món ngon càng tuyệt vời. Xưa nay dễ chưa có ai luận một cách nhiệt liệt, thiết tha đến thế. Tản Đà có lẽ đã bỏ công trau luyện nghệ thuật đến mức thượng thừa, nhưng ông lặng lẽ “thực hành” nhiều hơn là đàm luận. Thạch Lam có cởi mở hơn, nhưng bên cạnh Vũ Bằng cũng hóa ra từ tốn, dè dặt hẳn. Vũ Bằng không dè dặt chút nào. Ông không ngại làm một kẻ cực đoan, quá khích. Phải chăng vì tình cảnh của ông Vũ khác người trước: ông nói về món Bắc khi không còn ở Bắc nữa, ông nói về nó, nói bằng tất cả nỗi tiếc nhớ da diết?
Và Võ Phiến đã nêu lên một khía cạnh đặc sắc của miếng ngon đối với Vũ Bằng. “Món ăn đất Bắc gợi lại nơi đây, nó là cả cảnh vật cỏ cây, phong cảnh đất Bắc, nó là thời tiết nắng mưa nóng lạnh, là màn sương mù ở lưng chừng một ngọn đồi Chapa năm xưa, là cái rét nàng Bân một ngày hội “tung còn” của trai gái Thái được xem ngày còn trai trẻ, nó là phong tục tập quán từng vùng từng xứ, lại còn là kỷ niệm gia đình, là tình nghĩa vợ chồng v.v. Tất cả đã xa rồi, mất cả rồi. Cho nên nỗi nhớ tiếc những món ăn của Vũ Bằng nó vượt lên trên các món ăn, nó thành một nhớ tiếc mênh mông mà thống thiết.”
Thực vậy, hãy nghe ông Vũ nói về trái vải làng Cầu Họ: “Thì ra cái vải gia dụng, cái vải thật ngon cũng có khác cái vải thường ta ăn rất nhiều. Ngay từ cái vỏ trái vải tiến cũng đã khác thường rồi: nó không đỏ màu huyết dụ, nhưng ong óng một màu nâu cổ kính, mà nhẵn lì đi chớ không có gai gồ ghề. Nhìn kỹ hơn một chút nữa thì trong cái làn da màu nâu ấy nổi lên những cái vân và thỉnh thoảng giữa cái vân lại có một chấm đỏ hiện lên. Trái vải này thực ra không lớn lắm, trung bình chỉ to hơn cái chén quân pha trà tàu một chút, nhưng đặc biệt là khi bóc vỏ ra rồi, không có nước tèm lem, mà hột thì nhỏ chỉ bằng cái đầu ngón tay. Cùi nó dày như cùi dừa, nhưng không trắng bạch mà lại hung hung màu ngà. Đặt lên lưỡi, cắn một miếng thì nước chan hòa, ngọt sắt mà nhai thì mềm, nhưng không nhão mà lại giòn, nhai khe khẽ mà chính tai mình thấy như sậm sựt.»
Theo Võ Phiến, yêu nhớ một thứ trái cây mà đến thế tưởng thực là đã hết lòng yêu nhớ. Nhưng chưa hết. Võ Phiến viết tiếp: “Thế rồi từ trái lại nhớ luôn đến người; nhớ quay nhớ quắt, nhớ đau nhớ đớn ngần này thì ai nghe qua mà không xúc động: “Nhớ ơi, nhớ sao nhớ quá thế này! Nhớ cũng vào một mùa vải như thế này, hai vợ chồng rảnh rang cùng đi về Vụ Bản thuê một căn nhà rơm để nghỉ mát thay vì đi lên núi, sáng sáng, lúc mặt trời chưa mọc, hai đứa cùng đi tha thẩn dưới rặng vải cùng uống mùi thơm của vải chín tiết ra trong không khí văn vắt. Chín mười giờ sáng, vào một cái quán ăn một bát canh bún, uống một chén chè tươi rồi lại đi… đi mãi dưới các vòm cây bất tận cho tới trưa, mệt quá, không thể đi được nữa, phải ngồi dựa vào gốc cây thiêm thiếp… Mặt trời bắt đầu lên cao. Có vài chỗ mạ đã tốt, dãi ra mơn mởn, xanh màu cốm dót.
Quỳ ơi, bây giờ em ở đâu? Tại cái xứ có nhiều loại kèn xe hơi cực kỳ tối tân này, em có biết rằng có người chồng thỉnh thoảng trông ra nắng tháng tư lại nhớ đến một buổi trưa tiền kiếp, chúng ta đang dựa gốc cây thiêm thiếp, sực nghe thấy tiếng chim tu hú, đều mở cả mắt ra để cùng tìm xem con chim tu hú đậu ở đâu mà kêu to như thể ở chính bên tai ta vậy?”
Rồi Võ Phiến nhận định tiếp:
“Tình vợ chồng thương nhớ nhau xưa nay trong văn chương đã mấy khi có những biểu lộ thiết tha đến thế? Người ta nhớ vợ khi giở mảnh tàn y, khi chợt nhìn cổ kính, nhớ những lúc sớm ngõ trưa sân, những lúc đêm thanh cảnh vắng, dưới ánh trăng tà v.v. Vũ Bằng vượt hết mọi khuôn sáo cũ mòn. Ông nhớ vợ khi nhúng chân xuống một dòng nước, khi nhìn ra nắng trưa, khi ngủ ngồi dưới bóng cây, tai nghe tiếng kêu sỗ sàng của con chim tu hú. Cái tình của ông nó thực quá, cảnh của ông nó sống động quá, làm người đọc giật mình nhẩy nhổm.
Trong một cuốn Thương nhớ mười hai mỗi lúc ta mỗi bắt gặp những dòng chữ đứt ruột như vậy. Có thể trách văn chương ấy cá nhân quá, thiếu lập trường, thiếu giai cấp tính, thiếu đảng tính, thiếu hiện thực tính v.v. nó tha hồ thiếu nhiều thứ tính, miễn nó có một tính người nồng nàn đến thế là đủ cho ta lấy làm quý.”
Nguyễn Đình Toàn, trong một bài viết đọc trên đài VOA, cũng đặc biệt chú ý tới văn tùy bút của Vũ Bằng:
“Hai cuốn tạp văn Miếng Ngon Hà Nội và Thương Nhớ Mười Hai được độc giả hoan nghênh hơn nhiều. Ở các cuốn này, văn ông trau chuốt, đôi khi đọc, người ta có cảm tưởng như đang đọc những bài thơ xuôi.
“Lại không phải chỉ có cái ngon, cái đẹp, qua ngòi bút Vũ Bằng còn có cả cái tình bên những món ăn nữa.
Đoạn Vũ Bằng nói về món “hổ lốn”, tức là những món ăn dư của những ngày giỗ, tết, bỏ “hầm bà làng” vào nồi đun nóng, thêm vào chút ít rau cỏ, cũng đáng được đưa vào các cuốn “thi văn trích diễm”:
“Ngoài sân mưa, mưa lăn tăn làm ướt giàn thiên lý. Mấy con ngỗng trời bay tránh rét, buông ở trên màn trời xám màu chì mấy tiếng đìu hiu. Cơm vừa chín tới, hẩu lốn lại nóng hổi, bốc khói lên nghi ngút, mà ngồi ăn ở trong một căn phòng ấm cúng với người vợ má hồng hồng vì mới ở dưới bếp lên, có họa là thất phu lắm mới không cảm thấy cái thú sống ở đời».
Cuốn Thương Nhớ Mười Hai xuất bản tại Sài Gòn trước 1975 được rất nhiều người đọc và coi ông như một trong những nhà văn viết tùy bút hay nhất của chúng ta.”
NG&BH (Tổng hợp từ tin Internet)