Hôm nay, Nguyễn tôi xin đặc biệt giới thiệu tác phẩm Cõi Đá Vàng của nhà văn Nguyễn Thị Thanh Sâm qua bài viết của Trần Thị Nguyệt Mai. Được biết Cõi Đá Vàng được nhà xuất bản An Tiêm ấn hành lần đầu năm 1971, nhưng do không được giới thiệu nhiều nên số người biết bị giới hạn. Đến năm 2012, nhà văn Trần Hoài Thư người chủ biên Thư Ấn Quán cho tái bản nên tác phẩm được phổ biến rộng rãi ở hải ngoại. Đây công và nhờ lòng ưu ái của nhiều người. Tiếc là Nguyễn Thị Thành Sâm hiện bị Alzheimer nên không còn đón nhận được tác phẩm của mình theo như ước nguyện nhưng dù sao Cõi Đá Vàng cũng đã chiếm được vị trí xứng đáng trong nền văn học. NGUYỄN & BẠN HỮU

Trần Thị Nguyệt Mai

Nếu phân biệt về giới tính, số lượng và tác phẩm của những người viết “Nam” ngoài vòng đai trong Văn chương miền Nam thời chiến (1954-1975) có khá nhiều: Y Uyên, Lê Bá Lăng, Doãn Dân, Trần Hoài Thư, Phạm Văn Nhàn, Luân Hoán, Vũ Hữu Ðịnh, Phan Xuân Sinh, Nguyễn Bắc Sơn, Linh Phương… Hầu như không có một người “Nữ” nào viết ngoài vòng đai cả. Có thật vậy không?

Phải đợi đến tháng 10/2011, nghĩa là sau 40 năm từ khi sách được phát hành vào tháng 9/1971, khi trang blog Phay Van với cô chủ thật “đặc biệt” và nhóm bạn yêu thích văn chương mà tôi đã ghi lại trong “Hành trình của Cõi Ðá Vàng”[1], thì tôi mới biết đến tên nhà văn Nguyễn Thị Thanh Sâm. Trước năm 1975, trong chúng ta hầu như không mấy ai nghe nói tới tác phẩm “Cõi Ðá Vàng” của bà, dù cho cuốn sách ấy được nhà An Tiêm, một trong những tên tuổi của miền Nam thời bấy giờ, xuất bản. Cuốn sách ra đời, rất im hơi lặng tiếng, không được một lời giới thiệu hoặc ca ngợi bởi những ngòi bút phê bình điểm sách ở thủ đô Sài Gòn thời bấy giờ. Cũng là một điều rất đáng ngạc nhiên khi biết rằng tác giả đã khá thân thiết với một số bạn trong giới văn nghệ thời ấy.

Cõi Ðá Vàng được Thư Ấn Quán tái bản năm 2012 với tranh bìa của họa sĩ Ðinh Cường và Thư Quán Bản Thảo số 51 – tháng 4/2012 giới thiệu tác phẩm Cõi Ðá Vàng & thơ của tác giả Nguyễn Thị Thanh Sâm

Ðã 9 năm từ khi Thư Ấn Quán tái bản cuốn sách này. Bao nhiêu nước chảy đã qua cầu. Họa sĩ Ðinh Cường, người vẽ bìa lại cho lần tái bản, và chị Kim Nhung, em gái tác giả cũng là người thay mặt gia đình đồng ý cho Thư Ấn Quán tái bản nay đã đi thật xa. Cả tuần nay đọc lại tác phẩm để thưởng thức cũng là khi tôi nhận ra một thiệt thòi rất lớn. Giả sử ngày ấy, ngay sau khi tác phẩm ra đời tháng 9/1971, nó được những cơ quan truyền thông giới thiệu rộng rãi và được mọi tầng lớp độc giả đón nhận nồng nhiệt… biết đâu tình thế đã khác… Một cuốn sách rất mực văn chương nhưng đã nói đến những sự thật của chế độ Cộng sản mà tác giả là một thiếu nữ, như bao nhiêu thanh niên thời ấy, khi thấy quê hương Việt Nam bị giẫm nát dưới gót giày xâm lăng của người Pháp đã lên đường đi theo kháng chiến mong ngày giải phóng quê hương khỏi ách thực dân, mang lại thanh bình cho xứ sở. Vâng, bà đã tham gia, đã hiểu và thấy hết tất cả Sự Thật.Và đã viết lại.

Xem thêm:   Nhà văn và người lính Cao Xuân Huy

Dù ngay đầu tác phẩm bà đã ghi lời đề tặng:

Dâng Tốn tác-phẩm đầu tiên của Sâm.

Cuộc đời này không dung những kẻ thương yêu nhau.

Em đã tìm thấy Anh trong Cõi Ðá Vàng.

THANH SÂM

Nhưng ông Tốn, Phan Văn Tốn -phu quân của bà, nguyên là Quận trưởng quận Khiêm Ðức, Phó Tỉnh trưởng tỉnh Quảng Ðức, sau đổi qua làm Chỉ huy trưởng bộ Chỉ huy Quân sự Ðà Lạt, kiêm Quân Trấn Trưởng, kiêm Phó Tỉnh Trưởng Nội An Ðà Lạt. Trung Tá sau được vinh thăng Ðại Tá, đã tử vong vì một quả mìn khi đi thanh tra đồn Kim Thạch của tiểu khu Tuyên Ðức[2];cũng là nhân vật Phan trong truyện chỉ được nhắc đến thoáng qua ở vài trang cuối của chương thứ 25 như “một người bạn học cùng trường ở Hương Khê ngày nàng còn học ở Liên khu Tư”. Sau này có dịp đọc bài viết “Nhà xưa có hoa mimosa vàng” của Bác sĩ/ Nhà thơ Nguyễn Ðức Tùng (hiện đang sinh sống và làm việc ở Canada), tôi được biết thêm về thân sinh của ông Phan Văn Tốn (cũng là cậu ruột của nhà thơ này), “gia cảnh nghèo, sinh bất phùng thời chữ Hán không được dùng, trở thành nông dân bất đắc dĩ, nhà lại đông con”, được một người dì ở Huế “cho không một con bò để cày cấy và làm phương tiện sinh sống. Khi cậu tôi cầm sợi dây thừng dài dẫn con bò từ phố qua đò Thạch Hãn về làng, cũng là lúc bản án dành cho cậu được viết xong. Bọn du kích bắt cậu lên rú tra khảo. Ðến ngày thứ ba, cậu không chịu nổi nữa, đành ký giấy tình nguyện hiến con bò cho kháng chiến, với điều kiện cho phép em gái của cậu, tức mẹ tôi, và đứa con gái đầu lòng của cậu, chị Sim, chị của anh Tốn, được lên thăm. Chúng cho phép.

Xem thêm:   Đọc Tâm Thanh, từ một góc riêng

Khi em và con đến, cậu tôi bí mật dặn họ: phải về mau, vì là con gái, chúng chưa có ý định thủ tiêu, đem hết cả nhà tản cư về tỉnh, đêm nay hay đêm mai thôi chúng sẽ giết anh, giết cha. Chúng đánh gãy hết các xương sườn của ông, nên ông biết bản án tử hình đã được ký. Tối hôm đó bọn du kích gọi cậu tôi đi thẩm vấn như thường lệ. Chị Sim khóc lóc nhứt quyết đòi đi theo. Chúng cho chị đi. Người cha bị dẫn sâu vào truông cát, sau cánh đồng bắp bạt ngàn, ven khúc sông uốn cong về thị xã, khuỷu tay trói ngoặt lại. Ðứa con gái lẽo đẽo theo sau. Chúng bất ngờ dùng báng súng đánh vào đầu cậu tôi đến vọt óc ra, trước cặp mắt kinh hoàng của chị Sim. Rồi đào hố lấp xuống. Ðứa con gái khóc thét, lăn xả vào ôm lấy cha. Thuận tay, chúng lấp huyệt chôn sống luôn chị Sim trên đồi cát. Mẹ tôi tất tưởi chạy về nhà mang theo lời dặn của anh trai. Từ đó vang vọng mãi trong con cháu gia tộc lời dặn: phải chạy cho xa. Anh Tốn lúc ấy là cán bộ đại đội của Việt Minh, nghe tin cha bị giết, bỏ ngũ về thành.” [3]

Nguyễn Thị Thanh Sâm thời ở Đà Lạt

Trở lại cuốn tiểu thuyết Cõi Ðá Vàng, trọng tâm xoáy vào hai nhân vật Trần và Huỳnh, hai người bạn thân và cũng là hai thanh niên yêu nước, sống có lý tưởng, yêu văn chương, tâm hồn nghệ sĩ lãng mạn, đi theo Việt Minh kháng chiến chống Pháp, nhưng gia đình thuộc thành phần tiểu tư sản. Trần là chủ nhiệm kiêm chủ bút báo Quân Ðội Nhân Dân, đảng viên đảng Cộng sản; còn Huỳnh chỉ là một quần chúng.

Mở đầu cuốn sách, ở chương 2, tác giả đã cho thấy một trong những tính cách của người Cộng sản là “thà giết lầm còn hơn bỏ sót”, với việc một cô gái trẻ ở thành phố Huế có chồng là một sĩ quan người Pháp, trở về làng thăm nhà và giỗ mẹ đã bị gán ghép cho tội Việt gian làm gián điệp cho Pháp nên công an Việt Minh “quyết định mang ra xử bắn cho rảnh, kẻo lỡ có máy bay bắn, mụ thoát được lại chỉ điểm cơ sở mình cho giặc thì khốn.” Tác giả cũng cho biết thêm “những thù oán, tỵ hiềm riêng tư cũng dựa vào đó để thanh toán nhau nhân buổi loạn ly này.”

Xem thêm:   Lư đã về lại Phá Tam Giang

Trần đã mục kích cảnh xử tử hình cô gái đó. Chàng cảm thấy bất nhẫn khi người ta đã dùng ba mũi tên tẩm thuốc độc để thử nghiệm trên thân thể người. Và đã lên tiếng: “Người ta không thể dùng con người để thí nghiệm phản ứng của những mũi tên tẩm độc mà người thiểu số chỉ dùng để bắn thú dữ trong trường hợp tự vệ. Giết một con người không thể xem như giết một con thú hoang, chúng ta đã tự hào là những kẻ tiền phong, có phải thế không, vậy các đồng chí nghĩ sao về hành động phi nhân này?”. Từ đây chàng bị “thất sủng”, bị cho là đầu óc còn nặng chất tiểu tư sản, chưa có được “nỗi căm hờn cao độ của một chiến sĩ yêu nước đối với kẻ thù” nên phải đến phân khu để dự lớp chỉnh huấn. Trở về, Trần ngã bệnh nặng, được chị Hiếu, một thiếu phụ góa chồng có hai con, hơn chàng mười tuổi, hết lòng chăm sóc. Tình yêu bắt đầu nẩy sinh từ đó. Trần muốn cưới Hiếu, nhưng Hiếu là người ngoài Ðảng nên Ðảng không chấp nhận, cùng lúc Trần nhận thấy mình không thích hợp với đường lối cai trị sắt máu nên làm đơn xin ra khỏi Ðảng. Do đó chàng bị đưa đến Trung tâm Cải hối Tây Hạ. Nơi đây Trần gặp lại Huỳnh, người bạn văn chương thân thiết, đã bị bắt trước đó và bị tra tấn dã man vì đã “đệ trình bản điều trần về chính sách cải cách ruộng đất lên cơ quan hữu quyền xin chuyển về cấp lãnh đạo trung ương.” Huỳnh bị khép vào tội phản động do công khai chống lại đường lối của Ðảng, cộng thêm những bài thơ gây xáo trộn tinh thần trong hàng ngũ bộ đội kháng chiến. Theo Huỳnh, “… cải cách ruộng đất được đề ra trong giai đoạn này sẽ không tránh khỏi làm cho nhân tâm phân tán, tài sản của dân sẽ bị lụn bại trong cơn khủng hoảng của sự thay cũ đổi mới. Song song với cảnh tàn phá chết chóc của chiến tranh, cảnh đấu tố tiêu diệt giai cấp sẽ xảy ra và chúng ta phải mang thêm gánh nặng xương máu của cuộc đấu tranh tương tàn nồi da xáo thịt sẽ còn khủng khiếp gấp ngàn lần tai họa chiến tranh. Sự diệt vong có thể thấy trước mắt vì đó. Một khi nhân tâm đã bị phân tán chia rẽ bởi giai cấp này giai cấp nọ tiêu diệt lẫn nhau, tình trạng đó gieo rắc khắp nơi sự nghi kỵ vu khống, thù ghét, oán hận do đó sự nhất tâm chống giặc cứu nước sẽ bị tan rã mau chóng.”

(còn tiếp một kỳ)