Để sống lại không khí của một thời trước 1975, ta có thể nghe những ca khúc của Lê Uyên Phương – Vũng Lầy Của Chúng Ta, Chiều Phi Trường, Dạ Khúc Tình Nhân, Một Ngày Vui Mùa Đông… Hoặc giả chúng ta có thể đọc lại những trang viết trong Không Có Mây Trên Thành Phố Los Angeles cũng của Lê Uyên Phương. Một điều cần ghi nhận: Lê Uyên Phương có tài trên cả hai lãnh vực, âm nhạc và văn chương. Không Có Mây Trên Thành Phố Los Angeles là một tác phẩm giá trị cần lưu giữ. Sau đây, xin giới thiệu với bạn đọc những trang viết về các quán cà phê thời ấy, trích từ ‘Không Có Mây…’ NGUYỄN & BẠN HỮU

Từ những quán cà phê ở Ðà Lạt trước 1975 rồi những bàn cà phê lề đường ở Sàigòn sau 1975 đến những quán cà phê nhạc sống ở Mỹ 1982 tôi tự hỏi những gì đã được người trẻ Việt Nam nói đến quanh những ly cà phê đen và trong cái không gian đầy khói thuốc đó.

MỘT

Không thể nào quên được những đêm thật tuyệt vời của Ðà Lạt vào những năm của thập niên 60. Chúng tôi, như phần đông những người trẻ lúc đó, thường hay la cà khắp các quán cà phê ở Ðàlạt, nhất là cà phê Tùng gần chợ Hòa Bình. Cái phòng vuông vức với những hàng ghế liền bọc plastic đỏ, những chiếc bàn thật thấp, trên tường có bức tranh lớn vẽ một người chơi guitar theo lối nửa lập thể, nửa ấn tượng, và cái không gian đầy khói thuốc trộn lẫn với âm nhạc nhẹ phát ra từ chiếc loa không lớn lắm đặt trên cao, tất cả đã trở thành một thứ ma túy đối với chúng tôi.

Bấy giờ là thời kỳ mà cuộc chiến đang vô cùng sôi sục, quanh những ly cà phê đen, người ta nói nhiều về những bạn bè đang ở trên các mặt trận, người ta nói nhiều về cái sống và cái chết, về cái phải và cái không phải trong cuộc chiến đang xảy ra, người ta nói nhiều về những sự việc trong một quân trường hay trong một trại nhập ngũ nào đó, và đôi lúc cả những nhà văn được giải Nobel lúc bấy giờ, xen lẫn với những mẩu chuyện về một cô gái xinh đẹp nào trong thành phố. Sự lo lắng về một tương lai bất định của thời chiến quả đã là một ám ảnh lớn cho tất cả chúng tôi lúc bấy giờ. Những giọt cà phê nhiều khi đã không được uống vì cái vị đắng của nó mà vì cái vị đắng của cuộc chiến kéo dài tưởng như vô tận so với cuộc đời hết sức ngắn ngủi của chúng ta – một người bạn vừa hy sinh ở góc rừng nào đó, không những để lại cho người thân của anh ta những nỗi buồn phiền bất tận mà còn thêm vào trong cái khói thuốc của căn phòng nhỏ bé vuông vức của những quán cà phê một sự u ám lạnh lẽo không cùng. Chúng tôi đã nhiều lần ngồi thở dài để đưa tiễn một người bạn lên đường và trong những câu chuyện, chúng tôi đã luôn luôn cố gắng để giải thích cho chính mình mọi sự dấn thân của chúng tôi lúc đó. H. là một sinh viên ghiền ma tuý. Một hôm trời đã khuya, chúng tôi đang lúc vui đùa ồn ào với nhau trong quán, H. bỗng ra dấu cho mọi người yên lặng, anh cầm cái thẻ sinh viên của anh đưa lên cao cho chúng tôi nhìn thấy rồi xé làm đôi, anh tuyên bố từ hôm nay anh chặt đứt mọi hệ luỵ trong quá khứ của mình, ngày mai anh lên đường đi trình diện tình nguyện nhập ngũ – Chiến tranh đôi lúc đã giải quyết cho chúng tôi một cách hữu hiệu những vấn đề cá nhân như thế. Biết bao nhiêu chuyện đã xảy ra trong một quán cà phê, ở đó đôi lúc đã là nơi mà những khúc quanh của một đời người bỗng mở ra trước mắt.

Xem thêm:   Nhà văn và người lính Cao Xuân Huy

Một bài hát mà lúc bấy giờ chúng tôi ai cũng thích, bài J’Entend Siffler le Train, tôi không nhớ ai đã hát bài đó, nhưng cái âm hưởng vừa gần gũi, vừa xa vắng của bài hát – như một tiếng còi tàu – đã thể hiện được đúng tâm trạng của chúng tôi lúc bấy giờ. Phải chăng trong sự thôi thúc của đời sống, trái tim ta đôi lúc bỗng bắt gặp được cái nhịp đập bất thường rất kỳ diệu của cuộc đời, và trong mỗi khối óc của chúng ta, một số những tế bào não bộ đã hiểu biết được đôi điều về cái đẹp vô cùng của sự não nề trong kiếp sống.

Trong cái bấp bênh của cuộc sống lúc bấy giờ, và trong cái xao xuyến không cùng của trí óc, âm nhạc đã tự nhiên có sức quyến rũ đặc biệt đối với chúng tôi. Không có thời kỳ nào mà âm nhạc lại đóng một vai trò tuyệt vời đến như thế, nó thâm nhập vào con tim chúng ta và biến mọi lo âu của cuộc đời thành một niềm hoan lạc mới:

… Hãy ngồi xuống đây, vai kề sát vai

cho da thịt này đốt cháy thương đau

cho cơn buồn này đốt nóng truy hoan

cho thiên đường này

đốt cháy trong cơn chia phôi

chia phôi tràn trề

Hãy ngồi xuống đây bên con vực này

ngó xuống thương đau.

(Hãy ngồi xuống đây – LUP)

Vợ chồng Lê Uyên Phương

Những quán cà phê lúc bấy giờ đã thực sự trở thành cái nhà của chúng tôi, ngoài giờ đi làm, đi học ra, cà phê là nơi chúng tôi thường xuyên có mặt, bất kể ngày đêm, ở đó chúng tôi có thể tìm gặp những người hiểu được mình và có thể thổ lộ mọi điều riêng tư mà không ai phàn nàn gì cả.

Xem thêm:   Đọc thơ Phan Xuân Sinh

Hồi đó, nhiều người bạn của tôi đã dùng cà phê làm nơi viết lách của họ, anh Lê Trung Trang đã đọc cho chúng tôi nghe những mẩu truyện dài, truyện ngắn của anh trong cái không gian đầy khói thuốc đó, nhiều bài thơ của HK, của LK, của PV cũng đã được viết nơi đây, và chính tôi, tôi đã dựng nên Lục Huyền Cầm cũng vì cái mục tiêu viết lách đó. Mỗi buổi sáng khi sương mù vẫn còn dày đặc trong các lùm cây và làm mờ các cửa kính trong quán, mẹ tôi thường thức dậy từ rất sớm, cụ luôn luôn pha sẵn cho tôi một bình nước trà thật đậm; ở một góc quán nhìn ra trước sân, những khóm tường vi bám đầy hàng rào, tỏa ra mùi hương ngào ngạt, tôi bắt đầu soạn những tập bản thảo của tôi và để hàng giờ trôi qua trong cái không gian yên lặng đó. Ðến gần trưa, thường có vài người bạn ghé lại quán, và chúng tôi cứ thế để cho thời gian trôi qua với những mẩu chuyện không đâu. Ðó là không khí của những quán cà phê Ðàlạt và đó là những gì mà cuộc sống đã tiếp đãi chúng ta như những người khách quý và đã tặng cho chúng ta cái tặng vật vô giá của nó sau khi đã thử thách chúng ta bằng những dằn vặt không nguôi.

HAI

Tôi tự hỏi điều gì thực sự xảy ra cho miền Nam 1975?

Xem thêm:   Đi thăm gian hàng sách Da Màu

Ðể vắn tắt tôi gọi điều đó là sự thể hiện cái sống sượng của biện chứng pháp. Những người chiếm đóng với cái đầu óc cứng nhắc như một cọc thép tôi, tưởng là có thể làm được mọi điều, nhưng thật sự họ chỉ làm duy nhất có một điều thôi, đó là tự đồng hóa chính mình và những con người khác với những con trâu. Không có những quán cà phê cho những con trâu, và những người trẻ nhất định không chịu làm trâu, họ rủ nhau ra ngồi ở các bàn cà phê được xếp vội vàng trên lề đường. Dọc các đường Nguyễn Du, Gia Long, bên cạnh Thư viện Quốc gia cũ mọc lên những bàn cà phê nằm san sát nhau, mỗi hàng cà phê gồm vài cái bàn đóng thô sơ, vài cái ghế đẩu nhỏ xíu, một bếp lò đốt bằng dầu lửa hay than vụn, và một cái ấm nước sôi. Ðó là tất cả những gì mà những quán cà phê trước đây thu nhỏ lại. Chúng tôi lại bắt đầu bu lại đó, không có nhạc, không có tranh ảnh, không có đèn đuốc, chỉ có lề đường và những hình ảnh sống động đầy bi thương đang bày ra trước mắt của một xã hội đang thành hình từ những giáo điều và những lời nói suông.

(còn tiếp)