Biên trấn

Hỡi người chiến sĩ đã để lại
cái nón sắt trên bờ lau sậy này
Bây giờ anh ở đâu?
Còn trên đời này đang xông pha đèo cao dốc thẳm
hay đã về bên kia, phương trời miên viễn chiêm bao.
Trên đầu anh cái nón sắt ngày nào ấp ủ
mộng mơ của anh, mộng mơ của một con người.
Ôi nó khác chi mây trời hiền hoà
khác chi bốn mùa êm trôi
có tiếng cười thủy tinh của vài đứa trẻ
và hơi ấm vòng tay ôm của một người vợ hiền
phải thế không anh?
Trong cái nón sắt của anh
mặt trời vẫn còn đó ban ngày
và ban đêm mặt trăng hoặc muôn muôn
triệu triệu vì sao vẫn còn đó
tất cả vẫn còn đó vẫn còn đó.
Nhưng anh bây giờ anh ở đâu
con ễnh ương vẫn còn gọi tên anh trong mưa dầm
tên anh nghe như tiếng thở dài của lòng đất mẹ
Dạo tháng Ba tên anh lẫn trong tiếng sấm đầu mùa mưa
nghe như tiếng gầm phẫn nộ đến từ cuối trời.
Hỡi người chiến sĩ đã để lại cái nón sắt
trên bờ lau sậy này
Anh là ai? Anh là ai? Anh là ai?

Hoàng Trọng

Căn cứ hỏa lực 5 nằm ngay ngã ba tam biên Việt Miên Lào, cách căn cứ Tân Cảnh chừng 5 cây số về phía Tây. Cũng trong những ngày chiến trường Cao Nguyên sôi động, tôi theo trực thăng từ Pleiku đến thăm Bộ Chỉ Huy của Liên Ðoàn 81 Biệt Kích Dù đang đóng ở căn cứ này. Cùng đi trên chuyến trực thăng, có một sĩ quan Chiến Tranh Chính Trị và Bác Sĩ Lê Thành Ý thuộc Bệnh Xá Biệt Ðộng Quân của Quân Khu II.

Căn cứ hỏa lực 5 nằm trên một đỉnh đồi, khi trực thăng sắp đáp xuống, người phi công ân cần căn dặn tôi:

– Xuống máy bay là phải chạy vào giao thông hào ngay tức khắc. Việt Cộng thích chỗ này lắm, chúng pháo suốt ngày suốt đêm.

Trực thăng đáp xuống, người phi công nhìn thấy mấy vị sĩ quan đứng đón ở bãi đáp không ai mặc áo giáp, đội nón sắt gì cả, anh lắc đầu:

– Nguy lắm, nguy lắm!

Người phi công cười giòn, vẫy tay chào rồi cất cánh. Anh mới trở về Việt Nam sau hai năm du học ở Hoa Kỳ. Anh em trong Bộ Chỉ Huy Liên Ðoàn 81 Biệt Kích Dù nghe có khách đến thăm đều ra chào hỏi vui vẻ. Những người tôi được gặp mặt hôm nay gồm có Trung Tá Phan Văn Huấn, Liên Ðoàn Trưởng; Bác Sĩ Ngô Thế Vinh, Y Sĩ Trưởng của liên đoàn; Thiếu Tá Lân, Thiếu Tá Vũ Xuân Thông (tài tử trong phim Người Tình Không Chân Dung) và những sĩ quan trẻ như Ðại Úy Ðào Minh Hùng, Ðại Úy Trần Văn Thọ, Ðại Úy Nguyễn Sơn… Các anh em trong lực lượng này đội mũ xanh, mặc quần áo trận màu hoa rừng. Sống ở rừng núi quanh năm nên người nào tóc cũng dài, nước da ngăm đen và ai cũng hiếu khách.

Trung Tá Phan Văn Huấn và Bác Sĩ Ngô Thế Vinh hướng dẫn tôi đi thăm bệnh viện của liên đoàn. Bệnh viện xây kiên cố. Nghe một người bạn nói là Bác Sĩ Vinh được đề cử đi du học ở Hoa Kỳ nhưng anh từ chối không đi. Anh nói với bạn bè:

– Trong lúc chiến trường còn khốc liệt như thế này, mình đâu thể bỏ anh em mà đi.

Trung Tá Phan Văn Huấn là một người Huế trầm lặng. Anh nói giọng Huế đặc. Xuất thân khóa 10 Võ Bị Ðà Lạt, lên đến cấp bậc và chức vụ này, hẳn đã trải qua bao nhiêu là trận mạc. Anh nói cho tôi nghe tình hình chiến sự của vùng Tam Biên và đưa tôi đi thăm một vòng chung quanh căn cứ.

Liên Ðoàn 81 đóng quân rải rác ở sườn đồi, trong rừng và dưới chân núi. Trung Tá Huấn kể lại một chiến công của anh em Biệt Kích Dù:

– Cộng quân đã chuẩn bị đánh Cao Nguyên từ lâu rồi. Trước khi chiến trường này bùng nổ, vào đầu tháng Hai năm 1972, liên đoàn hành quân ở vùng Tam Biên, Bộ Chỉ Huy Liên Ðoàn đóng ở căn cứ Tân Cảnh. Liên đoàn thả quân lục soát dọc một vùng biên giới Việt Miên Lào và khám phá Cộng quân đã mở sẵn một con đường từ Tam Biên, xuyên qua núi phía Nam căn cứ Tân Cảnh, cách Quốc Lộ 14 chừng 2 cây số để tiến quân đánh thẳng về Quân Ðoàn II. Con đường này được Cộng quân chuẩn bị rất khéo, chúng đốn hết cây lớn để mở đường, chừa lại những cây nhỏ dùng ngụy trang. Những cây nhỏ không trở ngại gì cho chiến xa, bởi vậy dù cho trực thăng có bay thật thấp ở trên ngọn cây cũng không thể nào thấy được một con đường đã chuẩn bị sẵn. Con đường như một lưỡi dao gí thẳng vào yết hầu của Quân Ðoàn II.

Xem thêm:   Nhạc sĩ Anh Việt Thu & dòng An-Giang hiu hắt

Sau đó Liên Ðoàn 81 Biệt Kích Dù giao lại căn cứ 5, căn cứ 6 và căn cứ Charlie cho Sư Ðoàn 22 Bộ Binh, vì lúc đó mặt trận phía Bắc Tây Ninh bị áp lực của địch quân khá nặng. Việt Cộng chiếm Lộc Ninh và di chuyển rất nhanh về bao vây An Lộc. Liên Ðoàn 81 Biệt Kích Dù được lệnh rời Tân Cảnh về giải vây cho An Lộc. Trung Tướng Ngô Dzu, Tư Lệnh Quân Ðoàn II xin Dù tiếp viện. Sư Ðoàn Dù đưa Tiểu Ðoàn 11 Dù lên trấn đóng tại Charlie, dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Nguyễn Ðình Bảo (nhân vật trong bài ‘Người ở lại Charlie’ của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh), và đánh một trận lẫy lừng khi căn cứ này bị địch quân dùng biển người tràn ngập.

Khác với Bác Sĩ Vinh và Trung Tá Huấn là những người trầm lặng, Trung Úy Y Sĩ Lê Thành Ý tính tình vui vẻ, phóng khoáng. Ông có dáng người cao lớn, giống như một lực sĩ hơn là một họa sĩ. Vậy mà bàn tay cầm dao mổ của ông cũng là bàn tay cầm cây cọ để sáng tác nhiều bức sơn dầu không thua gì những họa sĩ chuyên nghiệp. Nhưng nói đến bác sĩ Lê Thành Ý, những người quen biết không ai quên được một ca mổ gay cấn nổi tiếng của ông tại chiến trường Tây Nguyên này.

Người ta còn nhớ trận Pleime của những người hùng biên trấn Biệt Ðộng Quân Biên Phòng vào mùa Hè năm 1971. Sau khi Cộng quân bị đẩy lui bởi sức kháng cự mãnh liệt của các chiến sĩ Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng dưới quyền chỉ huy của Ðại Úy Giác, bên ta có một người lính trẻ mới 28 tuổi, gốc người thiểu số, bị một trái M79 ghim vào bắp chân. Tiểu đoàn không dám tản thương về Quân Y Viện Pleiku vì sợ trái đạn phát nổ bất cứ lúc nào trong khi di chuyển.

Căn cứ hỏa lực số 5 – nguồn thebattleofkontum.com

Ðược điện thoại cấp báo, Bác sĩ Lê Thành Ý đang có mặt tại Pleiku, không một chút do dự, ông mời một bác sĩ Mỹ cùng đi, nhưng bác sĩ này từ chối. Bác sĩ Ý gọi cho các bác sĩ ở Quân Y Viện Pleiku là Bác sĩ Bùi Thế Khải, Bác sĩ Nguyễn Huy Ðạt, Bác sĩ Nguyễn Thúc Cường và Bác sĩ Phong để nhờ các vị này sẵn sàng cấp cứu cho mình, nếu cuộc giải phẫu của ông không thành công. Các bác sĩ này sẽ túc trực tại Quân Y Viện Pleiku và chờ tin: bệnh nhân sống là bác sĩ sống, nếu trái đạn nổ, bệnh nhân chết đã đành, bác sĩ giải phẫu sẽ mất hai cánh tay và bị trọng thương từ cổ lên toàn mặt.

Vừa đến trại Pleime, Bác sĩ Lê Thành Ý cho làm một phòng mổ dã chiến bằng bao cát vây chung quanh giường của thương binh, chỉ chừa một cửa sổ hình chữ L. Cùng đến Pleime với bác sĩ Ý, có Bác sĩ Xuân thuộc Tiểu Ðoàn 50 Chiến Tranh Chính Trị. Bác sĩ Xuân đi theo để phòng cấp cứu bác sĩ Ý nếu cuộc giải phẫu thất bại và săn sóc cho bác sĩ Ý trên đường chuyển về Quân Y Viện Pleiku.

Phòng mổ dã chiến đã sửa soạn xong. Mấy chuyên viên đạn dược đang đứng chờ. Trực thăng tải thương đậu sẵn trên bãi đáp. Bác sĩ Lê Thành Ý đi tới, đi lui ngoài sân, hút thuốc không ngừng. Một lát, ông dừng lại nói với một ông Cha người Mỹ:

– Xin Cha hãy cầu nguyện cho tôi.

Cha vỗ vai ông và nói:

– Tất cả mọi người ở đây sẽ cầu nguyện cho bác sĩ khi bác sĩ bắt đầu mổ.

Bác sĩ Lê Thành Ý bước vào phòng, mặc áo giáp, đội nón sắt, đưa hai cánh tay qua khung cửa nhỏ của bức tường làm bằng bao cát. Nét mặt của bác sĩ Ý lúc này rất thản nhiên, tay cầm cây dao mổ, ông bắt đầu đùa với tử thần.

Xem thêm:   Hương sắc gia vị

Trong phòng yên lặng đến nghẹt thở. Ngoài hành lang, mọi người đều cầu nguyện theo tôn giáo của mình. Mười lăm phút sau, viên đạn M79 đã nằm gọn trong bàn tay khéo léo của Bác sĩ Lê Thành Ý. Mấy chuyên viên đạn dược lập tức mang viên đạn ra ngoài. Một lát sau, những người đang chờ đợi đằng trước nghe một tiếng nổ lớn, cửa phòng mở và Bác sĩ Ý bước ra. Ðám đông ào tới, người bắt tay, người ôm vai… để bày tỏ sự vui mừng của mình cùng với sự cảm kích lòng can đảm và vị tha của một người y sĩ.

… …

Hiện nay bác sĩ Khải ở Pháp, bác sĩ Ðạt ở New York, bác sĩ Cường ở Seattle, bác sĩ Phong ở Úc. Dù có dịp nào gặp lại nhau hay là không, nhưng chắc chắn họ không thể nào quên được những kỷ niệm của những ngày ở Cao Nguyên khói lửa mịt mờ.

Đại Tá Phan Văn Huấn – nguồn vnchtoday.blogspot.com

Trong số những người này, Bác Sĩ Ngô Thế Vinh hiện ở tại miền Nam California, là người có nhiều tình cảm gắn bó với miền núi rừng này nhất. Lúc còn đi học, anh là chủ bút tờ Tình Thương của Ðại Học Y Khoa Sài Gòn. Sau khi ra trường, anh sáng tác đều đặn trong những năm đầu: Mây Bão (1963), Bóng Ðêm (1964), Gió Mùa (1965) và Vòng Ðai Xanh (1971). Tác phẩm Vòng Ðai Xanh được thành hình trong khoảng thời gian ở Cao Nguyên, anh là Y Sĩ Trưởng của Liên Ðoàn 81 Biệt Kích Dù. Núi rừng và sinh hoạt của những sắc dân thiểu số là những đề tài ít người nhìn đến với một tình cảm sâu sắc như anh. Bởi vậy, với tôi, Vòng Ðai Xanh là một âm bản tuyệt hảo của một nhiếp ảnh gia yêu mến thiên nhiên và là một bản cáo trạng đanh thép lên án sự chà đạp quyền bình đẳng của con người.

… …

Sau khi đi thăm một vài nơi đóng quân của Liên Ðoàn 81 Biệt Kích Dù, tôi theo chân Trung Tá Huấn trở về doanh trại và được anh em mời ăn cơm trưa. Bữa cơm dã chiến thật đặc biệt với món thịt rừng, gồm thịt nai, thịt thỏ, do anh em săn về phơi khô làm lương thực. Mọi người vừa ăn vừa nói chuyện vui vẻ. Thiếu Tá Thông nói chuyện vui nhất, làm mọi người quên mất những trận pháo kích có thể chụp xuống căn cứ bất kể lúc nào.

Buổi tối tôi trở về Kontum, tạm trú trong một chủng viện. Các dì phước ở đây dặn dò:

– Nếu nghe pháo kích thì chạy xuống hầm. Hầm ở đằng kia kìa.

Chủng viện ở xa trung tâm thành phố, ban đêm khung cảnh tĩnh mịch và khí hậu thật trong lành. Tôi mở cửa sổ, mùi thơm của hoa bưởi, hoa trà từ ngoài vườn theo gió vào tận trong phòng. Rồi một giấc ngủ thật ngon lành trong gió mát và hương hoa của miền rừng núi. Nửa đêm, chợt tỉnh giấc vì những tiếng nổ long trời hình như ngay ngoài cửa sổ. Tôi biết là mình đang bị pháo kích. Chừng nửa giờ sau, tiếng pháo im bặt. Bên ngoài ánh trăng vẫn chiếu sáng trên những chùm hoa bưởi trắng ngần, hương thơm của hoa càng về đêm càng ngạt ngào trong gió. Cái chết chỉ trong đường tơ kẽ tóc. Và tôi thấy mình thích mùi hoa bưởi từ dạo đó.

Sáng hôm sau, tôi dậy thật sớm, ra sân đứng nhìn những mảnh đạn vương vãi khắp nơi. Dấu tích một quả đạn pháo nổ gần nhất chỉ cách nơi tôi ngủ không quá 10 mét. Các anh em trong Liên Ðoàn 81 lái xe từ căn cứ 5 đến chủng viện mời tôi đi uống cà phê. Một anh nói:

– Ðêm qua nghe pháo kích, xem tọa độ, thấy đạn rơi vào chủng viện, anh em chúng tôi lo cho cô lắm.

Bác Sĩ Ngô Thế Vinh – nguồn vietbao.com

Tôi cười:

– Cám ơn các anh. Ông thầy tử vi nói tôi sống lâu lắm.

Chúng tôi uống cà phê tại một quán cà phê nhỏ nằm bên dòng sông Dakbla. Người ta nói con sông này đặc biệt là nước chảy ngược dòng. Khi chưa đến Kontum tôi nghe nói như vậy, trong lòng nghĩ khi đến đây, phải ra đứng bên bờ sông Dakbla để nhìn xem nước có chảy ngược dòng hay không. Nhưng đến đây bao nhiêu lần rồi cũng quên mất chuyện đó.

Xem thêm:   Lê Xuân Thiết

Chủ nhân của quán cà phê nhỏ này là một cô Thái trắng. Bàn tay bưng tách cà phê có những ngón thật nõn nà. Các cô Thái trắng có một vẻ đẹp đặc biệt, nét đẹp của một bông hoa rừng, đẹp tự nhiên và có một chút gì man dại, dễ thu hút và ngây ngất lòng người. Chủ quán đẹp, cà phê Kontum ngon tuyệt vời, khách đến đây là những chàng trai chiến trường đi chẳng tiếc ngày xanh. Hôm nay ngồi đây uống một ly cà phê, nhìn nhau, nếu có một chút tình cảm nào đó, thì cũng chỉ là bèo nước tương phùng. Rời quán rồi, có thể vĩnh viễn không bao giờ gặp lại.

Vừa trở về Pleiku, tôi sững sờ khi nghe tin Ðại Úy Ngô Tùng Lam, Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 72 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng vừa tử trận tại Benhet. Căn cứ Benhet là một trong những căn cứ hỏa lực trấn đóng dọc vùng Tam Biên, là một trong những cái chốt làm gai mắt Cộng quân nhất trong mưu đồ tiến chiếm Kontum.

Ðại Úy Ngô Tùng Lam trước ở bên Lực Lượng Delta và năm 1968 đã nổi tiếng là người hùng trong lần giải tỏa mặt trận Cây Thị. Ðại Úy Lam là bạn rất thân của Bác sĩ Lê Thành Ý.

Tôi chỉ gặp Ðại Úy Lam có một lần cách đây hai tháng. Hôm đó Bác sĩ Ý đưa tôi đi thăm Liên Ðoàn 81 Biệt Kích Dù bằng đường bộ, nhưng đường mất an ninh nên phải trở về Pleiku. Chạy ngang qua phố thì gặp xe của Ðại Úy Lam. Ðại Úy Lam ngừng xe và nhảy qua xe của chúng tôi. Bác sĩ Ý giới thiệu:

– Ðại Úy Ngô Tùng Lam, người hùng đang trấn đóng ở Benhet.

Trung Tá Nguyễn Đình Bảo (trái) – nguồn vietbao.com

Ðại Úy Lam dáng gầy, để ria mép. Tôi định nhường cho ông ngồi ở ghế trước, nhưng ông đã nhanh nhẹn phóng lên ngồi ở đằng sau. Ðại Úy Lam có nụ cười thật tươi và nói chuyện vui như pháo nổ. Chúng tôi ghé lại uống cà phê ở một quán bên bờ hồ, cạnh doanh trại của Ðại Ðội 2 Quân Y. Chúng tôi nói chuyện về chiến tranh, về văn nghệ. Ðại Úy Lam lắng tai nghe bản ‘Tấm Thẻ Bài’. Tiếng hát của Thanh Thúy từ một máy cassette nhỏ của quán cà phê. Ông nói ông rất thích bài này, mà phải là Thanh Thúy hát mới thấm. Và ông kể chuyện tình của ông mới đến hồi chấm dứt gần đây:

– Tôi yêu một người con gái đã 5 năm mà chưa một lần nắm tay. Khi nghe tin nàng sắp lấy chồng, tôi một mình từ Pleiku lái xe về Ðà Lạt để gặp nhau lần cuối. Tôi ngồi lặng lẽ nhìn nàng, uống một ly cà phê, chúc phúc cho nàng rồi trở về căn cứ.

Ðại Úy Lam nhìn ra mặt hồ, thở dài:

– Nàng đi lấy chồng, nhưng tôi vẫn yêu nàng.

Bác sĩ Ý là người thích cười đùa vui vẻ nhất, mà lúc đó cũng ngồi im lặng nhìn những ánh đèn của nhà ai bên kia đồi. Những ánh đèn mờ mờ ảo ảo, chập chờn trong sương đêm của miền rừng núi.

Từ hôm về nhìn mặt người yêu lần cuối, vài tuần sau, Ðại Úy Lam tử trận tại Benhet trong một lần tấn công ác liệt của Cộng quân. Ðêm chúng tôi ngồi uống cà phê và nghe ông kể chuyện tình buồn của người lính chiến, đó là lần thứ nhất cũng là lần cuối tôi gặp ông.

Một Ðại Úy Ngô Tùng Lam với những chiến sĩ anh hùng của Tiểu Ðoàn 72 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng ở Benhet; một Thiếu Tá Bửu Chuyển; một Ðại Úy Phan Thái Bình, với những anh em dũng cảm của Tiểu Ðoàn 62 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng ở trại Lệ Khánh; một Trung Tá Lò Văn Bảo với những người lính Ðịa Phương Quân can trường của Chi Khu Dakto; một Trung Sĩ Nguyễn Văn Tạ, chiến sĩ xuất sắc của Tiểu Ðoàn 3/ Trung Ðoàn 44 của Sư Ðoàn 23 Bộ Binh ở căn cứ hoả lực 41 và 42; một Trung Tá Nguyễn Ðình Bảo với những chiến sĩ Dù oai hùng ở Charlie; một Trung Tá Phan Văn Huấn với anh em Biệt Kích Dù 81 ngạo nghễ ở căn cứ hỏa lực 5; một Y Sĩ Trung Úy Lê Thành Ý xả thân vì người ở Pleime… là những chất liệu sống động đã tạo nên một chuỗi huyền thoại về những người hùng biên trấn Tây Nguyên của một thời chinh chiến.

KMD, 1972

Số tới

 Qua cơn bão lửa