Đây là tập sách tranh song ngữ Anh – Việt của họa sĩ Lê Triều Điển. Xuyên suốt quyển sách là quá trình sống, học hành, sáng tác và bao nhiêu kỷ niệm từ thơ ấu cho đến ngày hôm nay.

Ðọc qua tập sách tôi thấy họa sĩ đã chọn tên sách có ý nghĩa rất hay, đầy hình tượng, thanh âm và sắc màu. Cuộc đời nhiều chìm nổi lênh đênh của người họa sĩ y hệt như những dòng sông mang nặng phù sa của vùng đất phương Nam. Mở đầu tập sách tác giả viết: “Vết xước của quá khứ, vết cắt của thời gian xẻ dọc xẻ ngang trong cuộc đời phiêu bạt, lờ mờ như giấc mộng, nhạt nhòa của ký ức. Đôi khi tôi tự hỏi: Tôi là ai? Tôi đang ở đâu?”. Có lẽ câu hỏi này chẳng phải là câu hỏi riêng của một mình anh Lê Triều Điển, nó là câu hỏi của bao nhiêu con người trên thế gian này, là câu hỏi muôn đời. Người xưa cũng đã từng hỏi như thế, người nay đang tự hỏi và rồi người của mai sau cũng sẽ tiếp tục tự vấn. Những con người sinh ra ở thế gian này, nhất là những người nhạy cảm, những nghệ sĩ, những ai quan tâm đến thân phận con người đều hỏi câu hỏi này.

Họa sĩ lê Triều Điển sanh ra và lớn lên ở vùng đất có những con sông chở nặng phù sa, những địa danh: Chợ Lách, vàm Xếp, vàm Măng Thít, Phú Phụng … tuổi thơ của anh và cũng như của tất cả người dân thời ấy quá cơ cực. Anh kể: “Hôm nay Tây ruồng bố miệt Cầu Kè bắt bớ, hãm hiếp, đốt nhà. Hôm sau Việt Minh trừ gian diệt ác, ám sát, đốt chợ, đốt đồn, giết thả trôi sông …”. Phận người dân như con sâu cái kiến, khổ đau vì vận nước loạn lạc chiến tranh. Gia đình của họa sĩ cũng như những người dân khác lênh đênh chạy loạn liên tục. Thuở ấy anh học chữ ở một ngôi trường mà nơi ấy vốn là ngôi đình cổ. Sau đó học tiểu học ở Tân Giai, sau khi tốt nghiệp thì thi vào trường Kỹ thuật Cao Thắng Sài Gòn. Ở đây anh đã học vẽ với thầy Thịnh Del (Mỹ thuật Paris), thầy Ủ Văn An (Mỹ thuật Đông Dương), cô Trương Thị Thịnh (Mỹ thuật Gia Định)… Năng khiếu, chăm chỉ học tập, sáng tạo và sự hướng dẫn của các thầy cô là nền tảng để sau này đời có một người họa sĩ nổi tiếng: Lê Triều Điển. Anh viết: “ … cái nhìn về nghệ thuật, sự sáng tạo, sự tìm kiếm của người nghệ sĩ trên con đường trở về bản ngã, trở về cội nguồn trong sâu thẳm của sự sáng tạo, của tâm hồn, chớ không chỉ là sự cần cù, khéo tay, góp phần hình thành trong tôi sự đam mê, dấn thân vào niềm yêu thương tuyệt đối trên hành trình nghệ thuật, một con đường không có điểm đến”. Anh nói đúng, hầu hết nghệ sĩ yêu nghệ thuật, sáng tạo không ngừng nghỉ và không bao giờ tự cho rằng mình đã đến đích. Cái đẹp của nghệ thuật vốn vô cùng, hành trình sáng tạo hay là hành trình đi tìm cái đẹp là một hành trình vô tận, một khi nghĩ mình đến đích thì kể như “chết” rồi! Hành trình nghệ thuật vĩnh viễn không có đích.

Xem thêm:   “Mặt trận miền Tây vẫn yên tĩnh”

Chiến tranh lan rộng và tàn khốc, tất cả người dân miền Nam sống trong khổ đau, sợ hãi và tương lai mịt mù vô định. Lúc này anh rời trường Cao Thắng qua học trường Bách Khoa Phú Thọ và anh thú nhận: “Nằm chung trong số phận những kẻ lừng khừng chán ghét chiến tranh”.Chiến tranh đang tàn phá quốc gia, gây bao đau thương thể xác và tâm hồn người. Mọi người lo sợ rối bời và mất phương hướng, trong hoàn cảnh này, họa sĩ dồn tâm trí: “Tôi vẽ, bôi xóa rồi lại vẽ, lại bôi xóa, hân hoan hào hứng với những sắc màu nhảy múa như những cơn lên đồng”. Chiến tranh leo thang càng lúc càng khốc liệt. Anh bị chuyển ra Đà Nẵng sau khi học xong khóa cơ khí không quân. Trong tình thế bế tắc, bi quan anh đã: “Tôi lao vào vẽ, vẽ để quên đi nỗi cô đơn, vẽ những nỗi buồn sâu kín trong tâm hồn, vẽ để tìm thấy chính mình, trở về với những đau khổ của một kiếp người, đón nhận từng khoảnh khắc cảm xúc của cuộc đời đang sống”

Lúc này những bức tranh anh vẽ đầy những vệt ngang dọc chằng chịt, tôi có cảm tưởng như những đường lửa đạn kinh hoàng của chiến tranh. Những bức tranh với những hình nhân, mặt người cách điệu đang toát lên vẻ hoảng sợ cực độ. Có bức tranh đầy màu sắc tím của hoa lục bình miền sông nước pha lẫn gam màu xanh xanh, ở giữa tranh là một khung chữ nhật màu đen với vô số vệt màu nhểu xuống… Phải chăng là cuộc đời bị “nhốt” trong đau khổ, tang tóc, chết chóc của chiến tranh?

Những năm 1970, anh trở về Vĩnh Long mở quán cà phê thu hút nhiều nghệ sĩ, sinh viên, học sinh đến ủng hộ. Những nghệ sĩ địa phương cũng đến sum họp và sinh hoạt với nhau: Nguyễn Thế Đệ, Trần Mộng Hoàng, Nguyễn Sinh Từ … Quán cũng là nơi họp mặt thường xuyên của nhóm du ca Đoàn Xuân Kiên. Anh được nhiều bạn bè ủng hộ nên thực hiện giấc mơ mở phòng đọc sách, mua sách nghiên cứu lịch sử, mỹ thuật, văn học, bách khoa, sử địa … Phòng đọc sách nổi tiếng và tỉnh trưởng tỉnh Vĩnh Long đã quyết định cho xây thư viện tại chợ Vĩnh Long.

Sau 1975, những tưởng hòa bình và thống nhất thì quê hương sẽ an ổn và cường thịnh … Nào ngờ lại tiếp tục một hành trình bất định mới cũng không kém phần khổ đau, sợ hãi, bơ vơ, lạc lõng … Một bức tranh anh vẽ có nhiều quân cờ oxox bị vây trong những ô vuông, tròn hoặc ngoằn ngoèo không biết hình dạng gì. Có lẽ người họa sĩ gởi gắm tâm sự đời là những cuộc cờ, thắng thua bất định, tất cả những cuộc cờ hay cuộc chơi ấy vốn đã được định đoạt bởi những thế lực giấu mặt. Những quân cờ oxox hoàn toàn không quyền quyết định thắng thua cũng như quyền quyết định vận mệnh của mình.

Xem thêm:   Tạp ghi dòng vụn vỡ

Về Cần Thơ, họa sĩ Lê Triều Điển cùng bạn bè thực hiện tập san văn nghệ và mở hội quán Quán Gió. Ở đây anh gặp nhà thơ Hồng Lĩnh, hai người yêu nhau và kết thành vợ chồng. Anh chị là cặp vợ chồng nghệ sĩ đẹp, ăn ý, đồng lòng và chung tình rất mực. Một cặp đôi quý hiếm trong hội họa, thơ ca của Việt Nam.

Hội họa là tình yêu, là máu, là tất cả đối với anh. Hành Trình Phù Sa có đoạn: “Hội họa đã thâm nhập âm thầm vào tâm hồn tôi từ rất lâu, nó như có sẵn trong máu thịt của tôi, cứ vẽ quẹt không chán nản, dù chẳng biết vẽ để làm gì, hình như đó là cách để tôi giãi bày với cuộc đời”

Họa sĩ Lê Triều Điển (ngồi giữa)

Sau 1975, tất cả lật nhào hết từ con người đến đạo đức, tâm hồn, đời sống vật chất, đời sống tinh thần … cái đói, khổ thường trực. Với người nghệ sĩ thì  sự kềm kẹp tư tưởng còn bức bách hơn. Sách có đoạn rằng: “Sau những năm hoạt động nghệ thuật tự do giờ anh em họa sĩ phải chịu sự gò bó của cái gọi là thông qua phác thảo rồi mới được sáng tác nên anh em rất khó chịu bức bối”. Ở trang này có kèm một bức tranh hỗn loạn với bao nhiêu màu sắc và với những hình thù vô định, đường nét rối beng phải chăng là cái mớ bòng bong hỗn loạn của xã hội?

Tranh của họa sĩ Lê Triều Điển thuộc trường phái lập thể hay trừu tượng, nó biểu tỏ cảm xúc nội tâm. Những mảng màu, những đường nét, những ký hiệu mang tính ước lệ rất khó hiểu, khó cảm nhận. Điều dễ thấy nhất là trên tranh của họa sĩ Lê Triều Điển đầy những vết ngang dọc chi chít, những hình tượng giống hệt chữ tượng hình, những biểu tượng của voodoo, những thể thức hình ảnh như người tiền sử vẽ trong các hang động … Dòng tranh của anh rất kén người xem vì nó không thuộc tính đại chúng, chỉ những người am hiểu nghệ thuật mới thích. Bản thân tôi cũng chẳng hiểu gì cả và cũng chẳng thích dòng tranh này. Tôi chỉ đoán mò và cảm nhận một cách chủ quan chứ thật sự không biết gì. Cái gu của tôi là những dòng tranh hay tượng điêu khắc thuộc trường phái tân cổ điển (tiêu biểu như Batoni Pompeo Jacques Louis David…) hoặc là dòng nghệ thuật của Michelangelo, Leonardo da Vinci, Claude Monet, Isaac Levitan …

Sau thời kỳ bao cấp, xã hội dần mở cửa hội nhập trở lại với thế giới, tranh của anh được trưng bày ở Gallery Tự Do, được bán cho Plum Blossom. Giai đoạn này anh gởi tranh cho nhiều gallery nhưng phần nhiều bị lấy mất hết, chỉ có một vài chủ nhân tốt bụng mới trả tiền. Ngoài vẽ ra anh còn đi làm trang trí công trình cho nhiều đơn vị nhưng phần lớn bị quỵt tiền, bị nghiệm thu ăn chặn, cắt xén… gần hết. Họa Sĩ Lê Triều Điển còn là nghệ nhân làm gốm nặn tượng. Những tác phẩm đất nung của anh lần đầu tiên triển lãm ở Gallery Xuân đường Võ Văn Tần. Họa sĩ Tú Duyên thích thú khen: “Lần đầu tôi mới thấy đất có tiếng nói độc đáo như vậy”. Có lẽ anh đã dồn hết tâm hồn vào nặn tượng cũng như đã từng với vẽ tranh. Những cục đất sét vô tri qua bàn tay của anh đã trở nên sống động, biết biểu cảm, biết “nói”, biết thố lộ vì anh đã thổi hồn vào.

Xem thêm:   Kinh đô thời trang Roma

Sau khi Mỹ bỏ cấm vận Việt Nam, kinh tế dần dần khá hơn, các mối liên quan giữa nghệ sĩ sáng tạo và người yêu nghệ thuật cũng tốt đẹp, nhiều nhà sưu tập tranh dám bỏ ra món tiền lớn để mua những bức tranh mà họ đánh giá cao. Nhờ tranh mà đời sống gia đình anh qua cơn khốn khó. Anh tâm sự: “Bán tranh tiếc đứt ruột vì tác phẩm giống như đứa con của mình sinh ra…” nhưng vẫn phải bán để sống còn, để tiếp tục duy trì sáng tạo, để tiếp tục cuộc hành trình vẽ. Lúc bấy giờ tranh của anh được treo trang trọng ở đại sảnh khách sạn, resort, ở nhiều Gallery danh tiếng và được triển lãm ở Singapore, Pháp…Tranh của anh màu sắc và đường nét khá ảm đạm, khắc khổ nó cứ như những suy tưởng và ý niệm cô đơn, lạc lõng của anh. Anh vẽ tranh hay nặn tượng gốm không đặt nặng về chủ đề tư tưởng, Tất cả tự nhiên như lưu xuất từ tâm hồn, đôi tay chỉ là công cụ truyền tải. Tôi đã một lần gặp anh ngoài đời, anh gầy gò, tóc cột đuôi gà… thường cười vui với mọi người nhưng tôi vẫn cảm nhận cái sự cô đơn lạc lõng của anh ở giữa cuộc đời. Anh có may mắn lớn là người bạn đời của anh, chị Hồng Lĩnh là một nhà thơ cũng vừa là một họa sĩ. Chị cũng yêu thích gốm, phải nói là cả hai tâm hồn đồng điệu rất mực yêu nghệ thuật. Chị Hồng Lĩnh xinh đẹp, hiền hậu, thủy chung, chịu thương chịu khó, gắn bó với anh suốt cả hành trình sống, hành trình sáng tạo nghệ thuật. Anh chị luôn bên nhau trên cuộc hành trình gian khổ của đời và cái hành trình bất tận đi tìm cái đẹp. Những giọt mồ hôi, những giọt màu mà anh chị nhỏ xuống trên chặng đường sáng tạo nghệ thuật cứ như những hạt phù sa. Những hạt phù sa xuyên suốt hành trình miệt mài bồi đắp.

TLTP

Ất Lăng thành, 0224